Hà Tiên thập cảnh: Đông Hồ và tên gọi xứ Hà Tiên

Đây là bài Đông Hồ ấn nguyệt trong tập Hà Tiên thập cảnh vịnh của Mạc Thiên Tích. Theo lời bình của thi sĩ Đông Hồ, Đông Hồ là cái hồ ở phía đông thành Hà Tiên. Ấn nguyệt là trăng in. Thi nhân đã nhìn bóng trăng in xuống mặt hồ y như cái ấn tròn đóng trên mặt tờ giấy bạch.

Hà Tiên thập cảnh: Đông Hồ và tên gọi xứ Hà Tiên- Ảnh 1.

Đông Hồ và núi Tô Châu

Ảnh: Hoàng Phương - Ngọc Phan

VỊ THẾ CỦA ĐÔNG H

Sách Gia Định thành thông chí chép: "Đông Hồ ở trước trấn thự. Cửa phía nam khóa chặt cảng biển Hà Tiên, cửa phía bắc tiếp hạ lưu sông Vĩnh Tế. Khoảng giữa là hồ nước mênh mông, rộng 71 trượng, gọi là hồ Hà Tiên, còn gọi là Đông Hồ. Giữa hồ có nổi cồn cát, phía đông và phía tây nước sâu trên dưới 5 thước, tàu biển ghe sông buồm neo chen nhau, khách buôn tấp nập. Trăng thanh gió mát, gọi là Đông Hồ ấn nguyệt".

Về tên gọi Hà Tiên, theo Gia Định thành thông chí (bản dịch của Tu trai Nguyễn Tạo, 1972), Hà Tiên tục gọi Mang Khảm, người Việt gọi là Phương Thành. Năm 1680, sau khi nhà Minh sụp đổ, Mạc Cửu không phục, không cạo đầu thắt bím mà để tóc dài rồi đem cả nhà chạy về phương Nam. Bấy giờ, ông chiêu mộ dân lưu tán ở Phú Quốc, Lũng Kỳ, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch Giá, Cà Mau lập thành 7 xã thôn; rồi sai thuộc hạ mang biểu văn đến kinh đô Phú Xuân dâng trình, xin làm người đứng đầu. Tương truyền, xứ này thường thấy tiên xuất hiện trên sông, nên gọi là Hà Tiên.

Hà Tiên thập cảnh: Đông Hồ và tên gọi xứ Hà Tiên- Ảnh 2.

Đình thần Thành hoàng, một di tích xưa ở Hà Tiên

Ảnh: Hoàng Phương - Ngọc Phan

Mùa thu, tháng 8 năm Mậu Tý (1708), chúa Nguyễn Phúc Chu phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, mới lập dinh thự, đồn binh, đóng ở đất Phương Thành. Tháng 4 năm Tân Mão (1711), Tổng binh Mạc Cửu đến kinh thành tạ ơn. Tháng 5 năm Ất Mão (1735), Mạc Cửu mất, con trưởng là Mạc Tông, tự là Thiên Tích dâng thơ cáo phó. Tháng 2 năm Bính Thìn (1736), chúa Nguyễn ban cho Thiên Tích kế tập theo cha, thăng làm Khâm sai đô đốc Tôn đức hầu và cho 3 chiếc long bài thuyền được miễn thuế, lại cho mở lò đúc tiền. Mạc Thiên Tích chia đặt văn võ nha thuộc, dựng công thự, đắp thành lũy, chia đặt đường sá, chợ quán. Từ đó, thương thuyền các nước vãng lai đông đảo.

Quần tiên dạ hội Đông Hồ

Câu chuyện thần thoại "quần tiên dạ hội" Đông Hồ được nữ sĩ Mộng Tuyết chép lại để giải thích địa danh Hà Tiên đến nay vẫn còn lưu truyền. Truyền thuyết kể rằng, vào những đêm trăng trong gió mát, biển lặng trời êm thường có tiên giáng xuống Đông Hồ đánh cờ, uống rượu, ngâm thơ. Những vị tiên ấy có đủ nam, nữ và cả trẻ em, áo quần đủ màu ngũ sắc. Tiên ông thì mặt mũi phương phi tuấn tú, tóc trắng như tuyết, râu dài tới đầu gối. Tiên bà, tiên cô thì yêu kiều diễm lệ đẹp đẽ vô cùng. Họ chơi giỡn trên chiếc "long thuyền" chèo đi chèo lại trên mặt nước Đông Hồ, bên cạnh dãy núi Tô Châu, tới gần sáng thì mãn cuộc bay về trời.

Hà Tiên thập cảnh: Đông Hồ và tên gọi xứ Hà Tiên- Ảnh 3.

Tượng mấy cô tiên đàn hát bên hồ

Ảnh: Hoàng Phương - Ngọc Phan

Tương truyền, thời Mạc Cửu có tổ chức lễ hội nguyên tiêu hằng năm với hoa đăng, thuyền bè treo hoa kết lá, chưng kết đèn lồng, kèn trống rộn rã ra tận cửa biển Kim Dự. Đến đời Mạc Thiên Tích, Đông Hồ là một địa chỉ "chơi trăng". Dịp tết Trung thu, Mạc Thiên Tích thường tới đây chèo thuyền ngắm trăng, uống rượu, ngâm thơ.

Theo mô tả trên tạp chí Nam Phong năm 1930, Đông Hồ là nơi sầm uất nhất của Hà Tiên: "Trong chợ ngó xuống sông là khoảng đất trống, ba phía kia toàn là phố lầu một tầng. Sân chợ có bến xe hơi đi các nơi. Phía tay phải là bia kỷ niệm chiến sĩ trận vong, phía trái là bến ghe, tàu. Ghe đậu rất nhiều và thường có 4 hạng: ghe chài; ghe lồng đi Sa Đéc, Sài Gòn; ghe bầu đi Phú Quốc; ghe Xiêm đi Vọng Các (Thái Lan), Hương Cảng (Hồng Kông) và Hạ Châu (Singapore)".

Chợ cũ Hà Tiên nằm gần bên bờ Đông Hồ. Ban đêm, nhà gần chợ thì đốt đèn măng sông hoặc đèn dầu dọi ra đường thấy mờ mờ. Phố xá nhà lầu cất dọc hai bên chợ, đông đảo nhộn nhịp, nào là tiệm cà phê, tạp hóa, có cả cái thư viện, quy tụ người đến đọc sách, báo hoặc mượn đem về… Đối diện phía bên kia là xóm Tô Châu, ngày xưa chuyên nghề chài lưới và bắt cá bằng rớ. Trên mặt nước Đông Hồ có bốn năm chục cái rớ đóng khít nhau. Vào năm 1918, xáng múc băng ngang Đông Hồ, rớ dẹp bớt người ta chuyển sang cắm chà và đóng đáy.

Hà Tiên thập cảnh: Đông Hồ và tên gọi xứ Hà Tiên- Ảnh 4.

Đường lên Tịnh xá Ngọc Tiên trên sườn núi Tô Châu

Ảnh: Hoàng Phương - Ngọc Phan

Đình Thành hoàng Hà Tiên cũng là di tích xưa gần Đông Hồ còn được bảo tồn. Ngôi đình tiền thân là đình Thành hoàng làng Mỹ Đức, được trùng tu kiến tạo lại năm 1888. Sau năm 1975, có lúc đem trưng dụng làm Nhà truyền thống huyện Hà Tiên, nay đã được trùng tu lại. Tờ giai phẩm Sài Gòn Mới số Xuân Quý Tỵ 1953 có bài viết dài 2 trang, gọi Hà Tiên là "xứ Tây Tạng của Việt Nam". Lý do, theo tác giả, vì ngay trong nội thành Hà Tiên đi đâu cũng thấy đền, chùa. Dân chúng ở đây rất mộ đạo Phật nên vào ngày rằm và mùng một, ở các chợ toàn bán bông hoa, trái cây và đồ chay.

Ngày nay, bên bờ Đông Hồ có cụm tượng các nàng tiên đang đàn hát để nhắc tích xưa. Phía bên kia, có con đường vòng quanh dưới chân núi Tô Châu, nhà cửa san sát từ triền núi xuống bờ hồ, có Tịnh xá Ngọc Tiên và Ngọc Đăng nằm cheo leo trên sườn núi. Đêm Hà Tiên khá yên tĩnh. Mới chừng 8 giờ tối đã vắng người đi lại dù phố xá vẫn sáng đèn. Hoạt động khuya nhất là loại xe đạp lôi trang trí đèn màu sặc sỡ, chào mời du khách đi một vòng qua các phố với giá chỉ 15.000 đồng/người. Loại xe độc đáo này chỉ thấy ở xứ Hà Tiên. (còn tiếp)

Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao