Thung lũng của những bản trường ca
Tô Hạp (nay là Khánh Sơn) - thung lũng mờ sương giữa miền rừng hoang sơ phía tây tỉnh Khánh Hòa - là nơi sinh sống của đồng bào Raglai, một trong những cộng đồng thuộc ngữ hệ Malayo-Polynesia, cư trú dọc dãy Trường Sơn, tập trung đông nhất ở Khánh Hòa với dân số khoảng 80.000 người.

Nghệ nhân ưu tú Mấu Quốc Tiến thổi kèn Darakrar
ẢNH: LÊ ĐỨC DƯƠNG
Tô Hạp cũng là tên loài cây đặc trưng mọc ven dòng sông chảy giữa thung lũng này. Cây Tô Hạp từng là lễ vật quý được tiến vua, được khắc tên trên Cửu đỉnh ở Thế Miếu kinh thành Huế. Người Raglai lấy tên cây đặt cho sông, cho làng và cho cả vùng đất quê mình.
Ông chính là "cây Tô Hạp" sừng sững nơi núi đồi Khánh Sơn mây trắng. Nếu có dịp ghé ngôi nhà nhỏ của ông trong làng, chắc chắn bạn sẽ nghe tiếng đàn Darakrar hay tiếng Chapi ngân vang, xa xa vọng về thanh âm trong trẻo của đàn đá bên suối ngàn.
Nơi đây, những bản sử thi Raglai tồn tại tựa như những khúc trường ca Tây nguyên, mang đậm sắc thái anh hùng ca, kể về hành trình đấu tranh chống lại ma quỷ và cái ác. Có bản dài tới 60 tiếng như sử thi A Wơi Nại Ti Lơr hay Udai - Ujac. Tính đến nay, đã có ít nhất 8 bộ sử thi được sưu tầm, chuyển ngữ đầy đủ, chủ yếu nhờ các cụ bà thuộc lòng và hát ngâm trong những đêm lửa bập bùng nơi ngôi nhà sàn bé nhỏ ở xứ này.
Từ phát hiện chấn động về kho tàng sử thi
Ít ai biết người Raglai còn là chủ nhân của bộ đàn đá Khánh Sơn nổi tiếng, được phát hiện năm 1979, từng làm giới khảo cổ sửng sốt. Nhưng kỳ diệu hơn cả chính là những bộ sử thi cổ xưa. Người có công sưu tầm suốt những năm 1980 là nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Thế Sang (đã mất). Ông Sang cùng cộng sự như nhà nghiên cứu Trần Vũ đã rong ruổi điền dã, ghi âm, chuyển ngữ, in sách lưu giữ những báu vật tưởng chừng đã rơi vào quên lãng. Công việc ấy càng trở nên quý giá khi họ tìm được truyền nhân chính hiệu: Mấu Quốc Tiến - Chama Lia Riya Tiểng!

Nhà nghiên cứu Mấu Quốc Tiến (phải) tại một hội thảo
ẢNH: LÊ ĐỨC DƯƠNG
Xuất thân là cán bộ Phòng Văn hóa H.Khánh Sơn (cũ), Mấu Quốc Tiến gắn bó sâu nặng với buôn làng, thấu hiểu nỗi lo văn hóa cộng đồng dần mai một. Vì vậy, khi theo học nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Sang, ông càng say mê và cần mẫn hơn. Mấu Quốc Tiến dấn thân sâu vào hành trình sưu tầm, nghiên cứu văn hóa Raglai, đặc biệt là kho tàng sử thi. Ông rong ruổi khắp núi rừng, lặn lội vào những bản làng xa xôi, kiên nhẫn hàng tháng trời để nghe các nghệ nhân kể lại những khúc sử thi dài hàng chục tiếng. Có nghệ nhân như bà Cau Mu Thiay đã qua đời chỉ một tuần sau khi kể xong sử thi A Wơi Nại Ti Lơr.
Công việc sưu tầm vô cùng gian nan bởi đa phần các nghệ nhân kể sử thi đã cao tuổi, lời hát lại chứa nhiều từ cổ mà lớp trẻ Raglai ngày nay ít người hiểu thấu. May thay, Mấu Quốc Tiến nằm trong số ít đủ năng lực, trình độ để giải mã những lớp nghĩa ẩn sâu ấy.
Không chỉ sưu tầm, ông còn cho xuất bản bộ sách Akhar - Jucar Raglai - Udai - Ujac dày tới 1.150 trang, tập hợp gần chục bản sử thi quý giá, góp phần cứu kho tàng văn hóa đang trên bờ vực mai một.
Hành trình gieo mầm sử thi cho thế hệ trẻ
Đặc biệt hơn, không chỉ dừng lại ở việc sưu tầm, Mấu Quốc Tiến còn âm thầm làm điều mà nhiều người cho là không tưởng: dạy thanh niên Raglai hát sử thi.
Tại Thành Sơn, cách trung tâm Tô Hạp (cũ) hơn 20 km - nơi được coi là cái nôi văn hóa Raglai Khánh Sơn, ông mở lớp dạy hát sử thi. Việc thuyết phục những chàng trai, cô gái đang độ tuổi yêu đương, vui chơi hy sinh thời gian cuối tuần để học thứ "khô khan, khó hiểu" như sử thi không hề dễ dàng.
Mấu Quốc Tiến cùng cô gái Bo Bo Yến - phát thanh viên tiếng Raglai của Đài Truyền hình Khánh Hòa - đứng lớp. Chính họ đã truyền ngọn lửa đam mê, khiến thanh niên say sử thi hơn cả men rượu cần. Các cô gái hăng hái học để tiếp nối bà và mẹ, trở thành những người hát sử thi tương lai.
Sự hiện diện của lớp học sử thi khiến âm thanh trong trẻo của những bản trường ca vang vọng bên bếp lửa, bên suối đá Khánh Sơn, hòa cùng thanh âm trầm bổng của bộ đàn đá kỳ diệu. Một vùng đất thấm đẫm hơi thở của sử thi sống động.

Khoảnh khắc mây tràn qua đỉnh đèo Tô Hạp
ẢNH: LÊ ĐỨC DƯƠNG
"Nếu không dạy hát, sử thi Raglai sẽ chết!", Mấu Quốc Tiến trăn trở. Bởi sử thi Raglai không thể chỉ đọc trên giấy. Cái hay, cái hồn nằm ở làn điệu, khẩu ngữ, nhịp ngâm nga đặc trưng, tựa như người Kinh học hát chèo, cải lương phải thuộc làn điệu lẩy, câu vọng cổ.
Gieo mầm sử thi, Chama Lia Riya Tiểng lặng lẽ góp phần hồi sinh tinh thần Raglai. Ông khiêm tốn nhận mình "chỉ là anh giáo làng nhỏ bé của buôn làng", nhưng với cộng đồng, ông chính là người thắp lên mạch nguồn văn hóa Raglai bền bỉ giữa đại ngàn.
Thời gian trôi đi, giờ đây Mấu Quốc Tiến đã thành "già làng", một nghệ nhân ưu tú của miền Khánh Sơn với râu tóc bạc phơ, nhưng ánh mắt vẫn lấp lánh, quắc thước, đầy uyên bác. Ông vẫn miệt mài nghiên cứu những công trình văn hóa còn dang dở, làm chuyên gia tư vấn cho giới nghiên cứu Raglai, tham gia các hội thảo văn hóa trong và ngoài tỉnh.
Ông chính là "cây Tô Hạp" sừng sững nơi núi đồi Khánh Sơn mây trắng. Nếu có dịp ghé ngôi nhà nhỏ của ông trong làng, chắc chắn bạn sẽ nghe tiếng đàn Darakrar hay tiếng Chapi ngân vang, xa xa vọng về thanh âm trong trẻo của đàn đá bên suối ngàn.
