Tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học: Tìm phương pháp giảng dạy phù hợp

KINH NGHIỆM TỪ ĐÀI LOAN

Tại khu vực châu Á, nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã và đang coi tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức. Đơn cử, Singapore đưa tiếng Anh làm ngôn ngữ chính trong giáo dục suốt nhiều thập niên qua, còn Malaysia áp dụng rộng rãi hình thức giảng dạy bằng tiếng Anh (EMI) trong các môn khoa học, kỹ thuật. Gần đây, Đài Loan ban hành chính sách "Song ngữ 2030", đặt mục tiêu nâng cao kỹ năng giao tiếp tiếng Anh của người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.

 - Ảnh 1.

Học sinh THPT tại TP.HCM trong tiết tiếng Anh

ẢNH: NHẬT THỊNH

Là một trong 14 cố vấn làm việc trong khuôn khổ chính sách "Song ngữ 2030" của Đài Loan, bà Jean Salisbury Linehan, cố vấn Fulbright về giảng dạy chuyên ngành bằng tiếng Anh tại ĐH Khoa học công nghệ quốc lập Đài Loan (NTUST), cho biết thách thức lớn nhất mà vùng lãnh thổ này đang đối mặt là nhiều giáo viên (GV) tuy rất giỏi chuyên môn nhưng chưa từng được đào tạo bài bản để dạy học bằng tiếng Anh.

"Họ thường vật lộn với "áp lực kép" là vừa phải truyền đạt nội dung phức tạp vừa phải duy trì sự chính xác, rõ ràng của tiếng Anh. Trình độ tiếng Anh của sinh viên cũng khác nhau, khiến khả năng tiếp thu bài dễ bị chênh lệch", bà Linehan nhấn mạnh.

Để giải quyết vấn đề này, nhóm cố vấn của nữ chuyên gia triển khai đa dạng hoạt động như xây dựng cộng đồng thực hành chuyên môn, tổ chức hội thảo... Trọng tâm là những phương pháp giảng dạy thiết thực, từ kỹ thuật hỗ trợ từng bước (scaffolding), sử dụng hình ảnh trực quan đến khuyến khích tương tác trong lớp. Bao trùm lên những phương pháp này là hướng tiếp cận học tập tích hợp nội dung và ngôn ngữ (CLIL), theo bà Linehan.

"Hướng tiếp cận này chú trọng phát triển kiến thức chuyên môn lẫn năng lực ngôn ngữ cho học sinh (HS), giúp các bạn học tiếng Anh một cách tự nhiên thông qua các môn học", bà Linehan nói.

"Kinh nghiệm của Đài Loan cho thấy giáo dục song ngữ thành công cần có sự ủng hộ chính sách mạnh mẽ, khả năng đầu tư dài hạn và tạo cơ hội tiếp xúc sớm với tiếng Anh thông qua các môn học", bà Linehan đúc kết.

Yếu tố trên cũng là nguyên do vị nữ cố vấn khuyến nghị VN vừa phải bắt đầu dạy học tiếng Anh từ sớm, vừa nên đưa tiếng Anh vào giảng dạy thông qua nhiều lĩnh vực nội dung khác nhau chứ không chỉ dừng trong các tiết học tiếng Anh. Ngoài ra, VN cần giúp các GV nâng cao năng lực ngôn ngữ, kỹ năng sư phạm, song song đó xây dựng nhận thức cộng đồng để mọi người hiểu tiếng Anh không chỉ là một môn học, mà là công cụ mở ra cơ hội và kết nối với thế giới.

NHỮNG KỸ THUẬT ĐÁNG CHÚ Ý

Hiện làm việc ở Singapore, bà Nguyễn Lê Tuyết Ngọc, Giám đốc khu vực châu Á Cơ quan khảo thí MTS (Anh) kiêm Giám đốc HEW London (VN), thông tin: Để dạy tốt các kiến thức bộ môn, chuyên ngành bằng tiếng Anh, thầy cô phải "làm chủ" nhiều kỹ năng sư phạm như scaffolding - tức chẻ nhỏ khái niệm, xây kiến thức vững chắc cho HS kèm sử dụng hình ảnh và ví dụ dễ hiểu; translanguaging - vận dụng linh hoạt nhiều ngôn ngữ khi giảng dạy; ICQs (kiểm tra HS có hiểu bài giảng của GV hay không) và CCQs (kiểm tra mức độ hiểu bài sau khi kết thúc bài giảng)...

Tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học: Tìm phương pháp giảng dạy phù hợp - Ảnh 1.

Phương pháp tiếp cận tốt nhất là trang bị cho học sinh kỹ năng ngôn ngữ, giao thoa văn hóa, giao tiếp, học tập để các bạn hòa nhập và phát triển trong môi trường nói tiếng Anh

ảnh: Đào Ngọc Thạch

Ngoài ra, với hướng tiếp cận CLIL, bà Ngọc gợi ý GV có thể áp dụng khung 4C trong CLIL gồm: content (dạy kiến thức bộ môn và chuyên ngành), communication (phát triển năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh), cognition (rèn tư duy bậc cao) và culture (nuôi dưỡng nhận thức văn hóa). Bên cạnh đó, GV bộ môn có thể tiếp cận bài học theo hướng "English as a medium of instruction" (EMI), tức sử dụng tiếng Anh như một phương tiện để giảng dạy.

Sự khác biệt là EMI đặt trọng tâm vào nội dung giảng dạy, GV đóng vai trò truyền đạt kiến thức, trong khi CLIL xem trọng cả ngôn ngữ và nội dung và thầy cô thường dạy cả hai khía cạnh này, theo PGS-TS Rhonda Oliver, Hiệu trưởng Trường Giáo dục trực thuộc ĐH Curtin (Úc). "EMI thường phổ biến với bậc ĐH nhưng hiện cũng được đưa vào bậc tiểu học, trung học ở VN, trong khi CLIL thường áp dụng ở giáo dục phổ thông", TS Oliver chia sẻ.

Còn với các GV tiếng Anh, để phát triển năng lực giao tiếp cho học trò trong bối cảnh mới, thầy cô có thể áp dụng các phương pháp như task-based language teaching (giảng dạy ngôn ngữ dựa trên tác vụ) hay communicative language teaching (giảng dạy ngôn ngữ giao tiếp), theo ông Đinh Quang Đức, Giám đốc học thuật SAM English House (Hà Nội).

Điều này giúp hiện thực hóa tầm nhìn dạy tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai bởi "chúng tạo ra một sự dịch chuyển căn bản, từ việc học ngôn ngữ như một hệ thống cấu trúc sang việc dùng ngôn ngữ như một công cụ giao tiếp", ông Đức nhấn mạnh.

Trong khi đó, ông Jonny Western, Chủ nhiệm chương trình Sáng kiến mới Khoa Tiếng Anh và chuyển tiếp ĐH tại Trường ĐH RMIT VN, cho rằng một thách thức đáng chú ý trong việc phát triển ngoại ngữ ở VN là nhiều người học tiếng Anh chỉ chú trọng điểm số.

"Khi kết quả kỳ thi là động lực học, HS có thể bị ám ảnh về các mẹo và "bí kíp", cũng như liên tục làm các bài kiểm tra thử. Điều này không hỗ trợ các em học ngôn ngữ một cách có ý nghĩa", ông Western nhấn mạnh. Vì lẽ đó, theo ông, phương pháp tiếp cận tốt nhất là trang bị cho HS kỹ năng ngôn ngữ, giao thoa văn hóa, giao tiếp, học tập để các bạn hòa nhập và phát triển trong môi trường nói tiếng Anh.


Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao