Tôi vô Trường Nghệ thuật sân khấu II (TP.HCM) một cách tình cờ (tình cờ nhất trong các cuộc tình cờ). Sau này nghĩ lại, tôi cho rằng chính Tổ nghề linh thiêng đã dẫn dắt tôi, "thảy" tôi vô đó. Tôi đi ngang, họ đang phát tài liệu chiêu sinh. Tôi bước vô mua đơn thi. Bắt đầu một hành trình nghề nghiệp, tuy nghề nhà nghiệp nhà, nhưng con đường tôi đi là một sự tạt ngang ngẫu nhiên. Tạt ngang nhưng thành đường.

“Cặp bài trùng” Hữu Châu - Hữu Nghĩa
ẢNH: BTC Ngôi sao đương thời cung cấp
Ở Trường Nghệ thuật sân khấu II lúc đó thì học trò là một lũ vô danh nhưng thầy cô giáo toàn những tài danh lẫy lừng.
Ngẫu nhiên hơn nữa, tôi quen Hữu Nghĩa.
Tôi nhanh chóng dụ dỗ người bạn hiền cùng lớp bước vào một cuộc phiêu lưu "định mệnh".
Chuyện của chúng tôi "hài" lắm.
Những chàng trai như hai thằng tôi, một đứa dân Sài Gòn nhưng đẹp trai vừa phải, ốm nhom dài thoòng, được đặt mỹ danh là "Thằn Lằn", đứa kia khá hơn chút, tròn trĩnh hơn, lục đục từ Cai Lậy chân ướt chân ráo mới lên. Được trúng tuyển vô trường, đứa nào đứa nấy vui sướng một cách nghiêm trọng. Học lớp diễn viên nên toàn những bài học nghiêm chỉnh, chúng tôi học vai chính diện, phân tích và đóng thử những nhân vật kinh điển kiểu như Othello, Hamlet, Roméo… rất nhiều.
Chúng tôi vừa học các lý thuyết, nguyên lý, tâm lý… vừa ngó nghiêng ra cuộc sống đang nhộn nhịp ngoài kia. Chúng tôi muốn vừa học vừa làm, muốn kiếm chút tiền. Nhất là tôi, đang kiêm thêm vai nam chính trong căn nhà lá nghèo nàn có mẹ già em nhỏ phải kiếm tiền đi chợ hằng ngày.
Tình hình xã hội lúc đó gần như ai cũng vất vả đều nhau. Nhưng các rạp hát vẫn còn sung, thêm nhiều điểm ngoài trời rất đông khán giả bình dân. Khái niệm "tụ điểm", "chạy show" cũng bắt đầu từ đây.
Những ông bầu sân khấu tạp kỹ nổi tiếng như Phương Sóc (tụ điểm Q.10), Duy Ngọc (Chợ Lớn và các tỉnh) luôn có nhu cầu về ca sĩ và kịch sĩ hát lót, diễn lót trong khi chờ các ngôi sao chạy show chồng chéo khắp Sài Gòn nên thường xuyên tới trễ.
Chú Sáu Bảo Quốc và chú Duy Phương lúc đó vụt sáng trong những show Tiếng cười sân khấu tuy còn thô sơ nhưng kiếm được khá tiền, thành một cặp bài trùng rất ăn ý. Hai chú diễn từng chặp ngắn trên những sân khấu kiểu đại nhạc hội hay tụ điểm, xen kẽ với các tiết mục ca nhạc, thời nổi như cồn của các anh chị Lê Tuấn, Ngọc Sơn, Ngọc Ánh, Bảo Yến, Nhã Phương… Hai chú chủ yếu là tận dụng hình thể và nét duyên riêng của từng người. Chưa có kịch bản hay tiểu phẩm hài hoàn chỉnh lắm.
Nhưng các chú nhiều show quá, chạy không xuể, lại thêm cảnh mỗi chú có "cơ quan chủ quản" khác nhau. Chú Bảo Quốc là quân của đoàn Trần Hữu Trang, chú Duy Phương thường trú ở đoàn Bông Hồng nên đôi khi giờ giấc tréo ngoe.
Chú Sáu kêu tôi: "Con coi có đứa bạn nào lanh lẹ chút, rồi tụi bây rủ nhau diễn chung. Cứ việc lấy mấy cái kịch bản của hai chú. Lúc nào hai chú không tới được, thì cũng có cái mà "chữa cháy" cho người ta".
Nghe lời chú, tôi về trường, cũng không "coi giò coi cẳng" ai nhiều, gặp Hữu Nghĩa và rủ rê luôn.
[...]
Bây giờ, lâu lâu coi lại những trò đó, có khi mắc cười và cả giật mình.
Hai chúng tôi rong ruổi trên chiếc xe Mobylette cà tàng của Hữu Nghĩa. Yên xe quá bất tiện cho thân hình cao nhòng ốm nhách của tôi lại chẳng êm ái tí nào, nên tới ngã tư đèn đỏ, tôi thường nhảy xuống thư giãn giải lao tí, có bữa hắn không biết, rồ máy chạy luôn làm tôi hớt hải la làng giữa phố đông.
Chúng tôi có quá nhiều kỷ niệm buồn vui, mồ hôi và nước mắt, thành công nho nhỏ và thất bại vừa vừa trong lúc còn dưới mái trường.
Chúng tôi xoay mòng mòng, chạy khắp thành phố, nhưng vẫn tỉnh táo để học hành đàng hoàng, ra trường tử tế. Chúng tôi kiếm được ít tiền, tuy không đủ đâu vào đâu, nhưng cũng tạm gọi là đỡ khổ. Nhờ có tuổi trẻ, thấy le lói chút niềm tin về khả năng đứng trên sân khấu, chúng tôi sống qua được những tháng ngày cả nước gian truân. Chúng tôi vô tình đáp ứng được phần nào nhu cầu giải trí của khán giả lúc đó. Toàn là lớp khán giả tay làm hàm nhai, cần chút tiếng cười cho đời bớt mệt.
Khi đã ra trường và đi thực tập về, tôi được nhận vô một đoàn hát lớn.
Sau đó, tôi trở về thành phố, tiếp tục gắn bó với bạn hiền Hữu Nghĩa chạy show, làm hẳn thành một kiểu song tấu nhịp nhàng tung hứng, thành danh đàng hoàng, mang tên "Tấu hài Hữu Châu - Hữu Nghĩa".
Dần dần, "hai cây cười trẻ" cũng nức tiếng khắp non sông.
Hai thằng tôi, vừa nghèo thiệt, cũng lo cơm áo cho gia đình thiệt, nhưng cũng vừa ham chơi ham kiếm tiền, chạy show tối tăm mặt mũi, miệng mồm không ngớt tuôn ra những câu chọc cười thành quen, điệu bộ cử chỉ lăng xăng, suýt thành cố tật.
Có lần chúng tôi rủ nhau ra bến tàu, "giả dạng thường dân" đi cưa cây thuê. Cũng hí hửng vì không ai nhận ra mình.
Được mấy bữa trót lọt. Bữa thứ ba, mấy đứa con nít reo hò như Columbus tìm thấy châu Mỹ: "Ô! Ôi! Hai ông Hữu Châu, Hữu Nghĩa kìa tụi bây ui!"
Hai thằng xanh mặt, đáng lẽ đứng lại cho người ta xin chữ ký thì bỏ chạy luôn.
Hữu Nghĩa ời ơi, có phải chúng ta đã gọi đó là thanh xuân? Và đã sống hết mình với bao thuận tiện, lắm trắc trở, làm cho người ta cười ha hả mà nhiều khi mình rất rầu trong lòng… Chúng ta giản đơn và ngó cuộc đời không hồng cũng chẳng xám.
Bây giờ thấy xa lắc xa lơ. (còn tiếp)