Viết văn từ thuở học trò
Nguyễn Văn Hầu sinh năm 1922 tại làng Bình Phước Xuân, tỉnh Long Xuyên cũ. Ông là người am tường chữ Hán, tiếng Pháp và sành cổ nhạc. Năm 30 tuổi, ông dạy văn học sử bậc trung học, đại học, viết báo, viết sách, đồng thời tham gia nhiều cuộc diễn thuyết và du khảo. Trong 10 năm (từ 1954 - 1964), ông đã vận động, gầy dựng và phát triển phong trào bình dân học vụ cho người lớn tuổi với hàng trăm cơ sở ở vùng nông thôn. Ngoài ra, ông còn chủ trương xuất bản nguyệt san Đuốc Từ Bi với số lượng phát hành 20.000 tờ mỗi kỳ, từ 1965 - 1968.

Một tác phẩm tiêu biểu của học giả Nguyễn Văn Hầu
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Từ thuở học trò, ông làm thơ và viết truyện đăng trên báo Tiến Bộ của Hồ Văn Sao ở Sa Đéc. Từ năm 1952, ông bắt đầu viết sách và cộng tác cho nhiều tờ báo nổi tiếng ở Sài Gòn, như các tạp chí Bách Khoa, Văn Hóa Nguyệt San, Văn Đàn, Phổ Thông, Sử Địa, Phương Đông… rồi dần dần chuyển từ thơ, truyện sang lĩnh vực biên khảo.
Trên tạp chí Bách Khoa, ông có những bài biên khảo với nhiều tư liệu quý, như bài Tế cẩu văn của cụ Thủ Khoa Huân (Bách Khoa ngày 1.11.1960), Nguyễn Hữu Cảnh, thượng đẳng khai quốc công thần (15.12.1960), Cụ Phan Bội Châu trong chuyến Nam hành năm Quý Mão (1.11.1962)… Trên tập san Sử Địa, ông có những bài biên khảo rất giá trị như: Mấy khu lăng mộ liên quan đến Thoại Ngọc Hầu, hoặc Bài tế Nghĩa trủng văn do Thoại Ngọc Hầu chủ tế cô hồn tử sĩ sau ngày đào kinh Vĩnh Tế.
Sách của ông rất đa dạng về thể loại, từ văn học, sử học, du ký, tôn giáo, tạp bút và được xuất bản liên tục, với trên 20 tác phẩm giá trị như: Việt sử kinh nghiệm, Cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (1956), Việt Nam tam giáo sử đại cương (1957), Nguyễn Quang Diêu, phong trào Đông du miền Nam (1961), Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (1970), Nửa tháng trong miền Thất sơn (1971), Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang (1972)…
Về tạp bút, văn học, ông có những tác phẩm như Thuật viết văn (1960), Bản ngã người Việt (1961). Sau năm 1975 ông xuất bản thêm Diện mạo văn học dân gian Nam bộ, giới thiệu các loại tục ngữ, câu đố, truyện cổ, ca dao, hò, vè, nói thơ và các điệu dân ca (2004) và bộ Văn học miền Nam Lục tỉnh, 3 tập.
Về tôn giáo, ông viết Nhận thức về Phật giáo Hòa Hảo (1969), Muốn về cõi Phật (1969), Tu rèn tâm trí (1970). Riêng Thất Sơn mầu nhiệm là một công trình biên khảo mô tả vị trí, hình thế của vùng Bảy Núi cùng các dị nhân, những sinh hoạt kỳ bí của núi rừng (1955, tái bản 1972) và Phật Thầy Tây An (1973).
20 năm cho một tác phẩm
Trong buổi diễn thuyết ngày 16.5.1973, tại hội trường tỉnh lỵ Kiến Phong cũ, trước số đông thính giả gồm các giáo sư đại học, trung học, thân hào nhân sĩ và sinh viên, học sinh, Nguyễn Văn Hầu tuyên bố rằng: "Chỉ có những người học thức, sanh trưởng tại miền Nam lục tỉnh mới khai thác được nhiều những tiềm ẩn chưa khám phá được ở vùng đất này. Một Lê Thọ Xuân, một Đông Hồ, một Sơn Nam, một Thuần Phong, Bình Nguyên Lộc, một Vương Hồng Sển, làm sao đào bới được cả một kho tàng văn hóa mênh mông đó". Đây cũng là tuyên ngôn của ông khi tham gia "đào bới" các vấn đề lịch sử văn hóa vùng đất Tây Nam bộ.
Trả lời tạp chí Bách Khoa (8.8.1973), Nguyễn Văn Hầu cho biết để viết quyển Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, từ năm 1952, ông đã bỏ công sưu tập tài liệu và mất 20 năm quyển sách mới hoàn thành. Trong khoảng thời gian dài đằng đẵng đó, ông không ngại nhọc nhằn, không nề nguy hiểm để khai thác, lục lọi các tài liệu sống, chết mà viết thành sách. Động lực của ông là lòng thiết tha nghĩ đến văn hóa VN còn một lũng trống khá to: đó là sự khiếm khuyết của văn hóa miền lục tỉnh.
Nguyễn Văn Hầu kể có lần cần tư liệu đối chiếu, ông phải vào Viện Khảo cổ mượn cho được bản gốc Đại Nam chính biên liệt truyện đọc tại chỗ. Nhưng ở đây lại không đủ bộ nên ông phải sang Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa tiếp xúc, nài nỉ hai lần mới được.
Ông cũng thường sưu tầm các nguồn tài liệu là những mẩu chuyện truyền khẩu trong dân gian. "Đó là những ngôi mộ nằm lì dưới đất, những tấm bia bể vùi trong ruộng, những bằng sắc, chiếu dụ, gia phả, thần chủ… mà người ta kính cẩn tôn thờ. Muốn có được những thứ này thì phải chịu khó lặn lội khắp nơi để dò la, hỏi han, sao chép, chụp ảnh. Đây là tài liệu sống bởi vì phải nhờ người biết chuyện cung cấp, phải sưu tầm dò hỏi. Không một tỉnh, một xã nào, khi nghe biết còn có tài liệu liên hệ đến Thoại Ngọc Hầu mà tôi không tìm tới", Nguyễn Văn Hầu chia sẻ.
Ví dụ, nếu không có cụ đồ già họ Bùi ở Kiến Phong mách bảo, dẫn đường thì ông không thể tìm lại được bài bia ký Vĩnh Tế sơn. Không có sự giúp đỡ của cụ Nguyễn Khắc Cường ở Châu Đốc thì ông không thể nào sao chép, chụp ảnh một số di tích còn lại của Thoại Ngọc Hầu. Hoặc như trường hợp cụ Châu Vĩnh Kiệt ở xã Quới Thiện (cù lao Dài, Vĩnh Long) đã giúp tìm ra lăng mộ của song thân Thoại Ngọc Hầu…
Sau năm 1977, mặc dù bị bệnh nhưng học giả Nguyễn Văn Hầu đã cố gắng hoàn thành 2 bộ bản thảo 300 năm văn học dân gian lục tỉnh và Văn học miền Nam lục tỉnh. Bộ sách Văn học miền Nam lục tỉnh được Nhà xuất bản Trẻ xuất bản năm 2012. Ông mất năm 1995 tại quê nhà ở Cù lao Giêng, An Giang. (còn tiếp)