Cái hun đồng bằng

Từ hun được sử dụng khá phổ biến trên cửa miệng của người bình dân ở miền Nam, nhất là ở Đồng bằng sông Cửu Long. Hun là biến thể ngữ âm của hôn và chỉ đúng trong một số ngữ cảnh cụ thể nhưng hoàn toàn không phải như thế. Bằng chứng là, trong một số trường hợp chỉ việc dựng vợ gả chồng hun không thể thay thế cho hôn như các trường hợp: hôn lễ, hôn thú, chủ hôn, hồi hôn....

Hôn là một sự giao tiếp bằng ngôn ngữ cơ thể, thể hiện tình cảm huyết thống, tình yêu đôi lứa, có khi đó chỉ là nụ hôn xã giao, thể hiện sự quý mến, kính trọng, ngưỡng mộ. Hôn là kề môi, kề mũi, áp môi, áp mũi vào đối tượng, đối tượng có thể là người, nhưng cũng có thể là vật (hôn thánh giá, hôn nhẫn, hôn đất). Với người, tùy theo quan hệ liên nhân, có thể thể hiện tình cảm bằng hôn môi, hôn má, hôn trán, hôn tay, hôn tóc, hôn ở vị trí khác cũng có nhưng ít gặp như hôn chân (Cho tôi hôn bàn chân em lạnh ngắt, T.H), trẻ con thì là thơm, hôn mà không tiếp xúc cơ thể, chỉ dùng bàn tay chạm vào miệng mình rồi gởi đi thì kêu bằng mi gió.

Cũng giống như một số hiện tượng xã hội khác, phạm trù tình cảm được thể hiện qua nụ hôn cũng có thể thay đổi tùy theo bối cảnh xã hội. 

Hãy cùng đọc bài thơ Hôn rất nổi tiếng của Phùng Quán, tác giả viện dẫn đến một lẽ thường: Khi người ta yêu nhau/Hôn nhau trong say đắm/Còn anh, anh yêu em/Anh phải ra mặt trận... và kết thúc bằng: Nhưng dù chết em ơi/Yêu em anh không thể/Hôn em bằng đôi môi/Của một người nô lệ. Nụ hôn rất "đỏ", rất lý trí, nó là kết quả của một sự hòa trộn nhiều không gian ý niệm, một tuyên ngôn, một lựa chọn: tình yêu đôi lứa không tách rời tình yêu quê hương đất nước, nụ hôn lý tưởng phải là nụ hôn của người chiến thắng chứ không phải hôn nhau trong tủi sầu. Ở đây, hiển nhiên, tình cảm, cảm xúc được thể hiện bằng nụ hôn, là hành động thay cho sự kiện.

Còn Xuân Diệu, vẫn trên nền tảng đối lập giữa động và tĩnh, vẫn là sự liên tưởng ngầm từ thuyền và bến, dùng ẩn dụ thi ca, thiên nhiên là con người, thiên nhiên thay cho con người: biển xanh và bờ cát, tình cảm thể hiện qua nụ hôn bất tận:

Hôn thật khẽ, thật êm

Hôn êm đềm mãi mãi.

(Biển)

Tất cả đã góp phần đã làm cho sự biểu hiện thang độ nhân tính phong phú hơn và dễ hình dung hơn nhờ vào phương thức lấy cụ thể thay cho khái quát.

Huỳnh Tịnh Của trong Đại Nam quấc âm tự vị (1895 - 1896) hình dung hun/hít đơn giản hơn nhiều so với bây giờ, hun, kề miệng mà nút, ấy là hun theo Tây; kề mũi mà hít ấy là hun theo An - nam cùng người Trung - quốc (trang 443).

Lê Giang (Bộ hành với ca dao, NXB Trẻ, 2004), khi công bố số ca dao do mình sưu tầm, với chủ đề đang bàn, bà đã chọn một tiêu đề con với một dụng ý rất rõ, muốn thể hiện cách bày tỏ tình cảm mang dấu ấn của một vùng đất như sau: Muốn hun thì hun cho liềnPhần sau đây, sẽ phân tích chủ yếu dựa vào ngữ liệu của tác giả này.

Trong tình cảm đôi lứa, hun, trước hết, là thể hiện cảm xúc, có khi chỉ để thăm dò thông qua một không gian tưởng tượng, thiên về giả thiết, bộc lộ mơ ước của chủ thể: Phải chi anh hóa đặng con kiến vàng/Bò ngang vành nón hun nàng cái chơi, hay: Thương em gò má ửng hồng/Phải chi em đừng mắc cỡ anh bồng anh hun. Có khi chỉ để bày tỏ cảm tình vu vơ, bày tỏ nhưng không chịu trách nhiệm về hành động ngôn từ của mình, bày tỏ gián tiếp, bày tỏ nhưng còn khoảng cách khá xa, hoàn toàn có thể rút lui êm thắm, nếu bị khước từ: Đôi mình mới gặp ngày nay/Cho hun một cái, em Hai đừng phiền hay: Trứng vịt đổ lộn trứng gà/Thấy em nhỏ thó anh đà muốn hun... Tất cả mới chỉ là ướm hỏi, mới phải chi, mới xin xỏ, mới ước gì thôi.

Trước những lời bóng gió của người con trai, người con gái có những phản ứng khác nhau. Trong tình yêu, hun là một hành động riêng tư, hơn thế nữa, còn là một việc thiêng liêng: Ôm hun ngoài sú ngoài biền/Ông trời cũng liếc, phật tiên cũng dòm. Cho nên, thể hiện tình cảm cũng phải có nơi có chỗ:

Chung quanh cô bác giáp vòng,

Anh có muốn hun thì về chốn loan phòng mà hun.

Hay:

Thương thì kết tóc xe tơ,

Hun chi ngoài bãi ngoài bờ khó coi.

Âu, đó cũng là cách rào đón thường tình, cách từ chối thường tình có dấu ấn của tập quán phương Đông, phải kín đáo, phải có quan hệ tình cảm như thế nào, thậm chí còn là một điều kiện mới được thực hiện.

Lại có cách ứng xử không cần rào đón vòng vo nhưng phải giữ gìn, phải dám chịu hậu quả:

Muốn hun thì hun cho liền

Đừng làm thổ lộ xóm giềng cười em.

Hay:

Thương nhau chớ nói lòng vòng,

Hun đại một cái xiềng gông cũng đành.

Đặc điểm giới của hai diễn ngôn vừa dẫn ra ở trên quá rõ. Các câu sau đây chỉ có thể là lời bộc bạch của nam giới: Tôi hun mình dẫu có la làng/Thì tui la xóm hai đàng chịu phạt chung, hay: Tui hun mình dẫu có làm hung/Nhơn cùng tắc biến, tui chun xuống sàn.

Những câu ca dao phân tích bên trên, tuy có xuất phát từ nội dung ngữ nghĩa nhưng rõ ràng tĩnh tại, tách khỏi ngữ cảnh. Bản chất của ca dao dân ca là một đơn vị tương tác, tương tác trong tình huống diễn xướng, tương tác giữa chủ thể với môi trường, tương tác giữa "hình" tức hình ảnh nổi trội, với "nền" tức bối cảnh làm phông màn.

Từ góc độ kiến tạo hình ảnh, các mối quan hệ này cho thấy cách thức con người tương tác với tự nhiên. Không chỉ vậy, những trở ngại khó khăn, những thử thách trong tình yêu, ở vùng sông nước cũng có những đặc điểm rất lạ, như ở câu hò đối đáp sau:

Nữ: Lỡ chưn em té xuống bùn/Áo quần lem lấm, hỏi anh hun chỗ nào?

Nam: Bậu ơi! đừng nói tầm phào/Thân em lem lấm chỗ nào anh cũng hun.

Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao