Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe

Trễ nhất là từ đầu thế kỷ 20, trong tiếng Việt đã xuất hiện câu tục ngữ viết bằng chữ Nôm: "別辰疎啐 庒別辰 預榾麻𦖑" (Biết thì thưa thốt, chẳng biết thì dựa cột mà nghe). Câu này đã được ghi nhận trong quyển Nam quốc phương ngôn tục ngữ bị lục, bản in theo ván khắc năm Duy Tân Giáp Dần (1914) của Quan văn Đường tàng bản. Có thể đây là câu gốc, về sau chữ "chẳng" được thay bằng chữ "không" để trở thành câu: "Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe", đã được ghi nhận trong quyển Tục-ngữ phong-dao của Nguyễn Văn Ngọc xuất bản năm 1928 (câu 226, tr.36).

Từ đó về sau, câu này vẫn được trích dẫn giống như thế, nghĩa là chữ "chẳng" đã biến mất hoàn toàn như trong quyển Việt-Nam tự-điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, Trung-Bắc Tân-văn (1931, tr.575).

"Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe" có nghĩa là khi ta biết điều gì thì nói ra, còn không thì ngồi yên để người biết giải thích, nói về điều đó.

Trong hệ thống chữ Nôm, thưa (𠽔) có nghĩa là "nói" hoặc "giãi bày, trình bẩm", bày tỏ với người trên hay người mà mình quý trọng, ví dụ: "Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa" (Truyện Kiều); "Thưa rằng bác mẹ tôi răn. Làm thân con gái chớ ăn trầu người" (Lý Hạng ca dao).

Còn thốt (啐) cũng có nghĩa là "nói": "Hoa cười ngọc thốt đoan trang"; "Cùng nhau thề thốt đã nhiều" (Truyện Kiều). Nhìn chung, thưa thốt là từ ghép đẳng lập, có nghĩa là "nói năng, thưa gửi".

Tuy nhiên, một số người đã nhầm lẫn nghĩa của câu này vì họ đã đọc và viết chệch từ "thưa thốt" thành "thưa thớt". Xin lưu ý, "thưa thốt" hoàn toàn khác nghĩa với "thưa thớt" (chữ Nôm: 踈率 hoặc 䜹闼) - một từ ghép có nghĩa là "lưa thưa, rải rác". Ví dụ: "Nhà tranh thưa thớt, đông sương lạnh lùng" (Thiên Nam ngữ lục ngoại kỷ) hay "thưa vắng, quạnh hiu": "Trăng thề còn đó trơ trơ. Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng" (Truyện Kiều).

Bây giờ, đối chiếu với Hán ngữ, ta thấy có thành ngữ "tri vô bất ngôn" (知无不言) gần giống nghĩa với vế đầu của câu "Biết thì thưa thốt…". Thành ngữ này có nghĩa là "Biết thì nói", trích từ Thôi Quang truyện trong Bắc sử, một quyển sách do Lý Đại Sư viết về lịch sử các triều đại Bắc triều và nhiều tài liệu lịch sử khác, kể từ nhà Bắc Ngụy (năm 386) tới nhà Tùy (năm 619).

Về sau, xuất hiện câu "Tri vô bất ngôn, ngôn vô bất tẫn" (知无不言, 言无不尽), nghĩa là "Biết thì nói, nói thì sẽ nói hết". Câu này có nguồn gốc từ chương Viễn Lự trong quyển Hành Luận của Tô Tuân thời Bắc Tống. Chúng tôi xin phép trích nguyên văn để quý vị có cứ liệu tham khảo: "Tri vô bất ngôn, ngôn vô bất tẫn, bách nhân dự chi bất gia mật, bách nhân hủy chi bất gia sơ" (知无不言, 言无不尽, 百人誉之不加密, 百人毁之不加疏), nghĩa là: "Biết thì nói, nói thì sẽ nói hết. Trăm người khen không làm ta thân thiết hơn, trăm người chê không làm ta tách biệt hơn".


Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao