Thuế thu nhập lũy tiến bắt nguồn từ đâu?
Hệ thống thuế má trong thế giới hiện đại có nhiều biến tướng cực kỳ phức tạp, không nước nào giống nước nào. Thoạt kỳ thủy, nhà nước ra đời như một "agency" do người dân cử ra để làm những nhiệm vụ mà từng người dân không làm được như bảo vệ tổ quốc, duy trì luật pháp, bảo vệ an ninh trật tự, xây dựng các công trình phục vụ công cộng và chăm lo cho người bất hạnh… Người dân góp tiền cho nhà nước làm những nhiệm vụ đó, tiền đó gọi là thuế.
Về nguyên tắc, những người được hưởng những dịch vụ ngang nhau từ nhà nước phải nộp một khoản thuế bằng nhau. Người nghèo không đủ khả năng nộp thuế thì được miễn thuế, người bất hạnh thì được nhà nước trợ giúp. Người có thu nhập cao là do lao động chăm chỉ và sáng tạo, họ lẽ ra phải được hưởng những thành quả lao động của họ sau khi thực hiện một nghĩa vụ thuế công bằng. Bởi vậy trong phần lớn lịch sử loài người không có thuế thu nhập lũy tiến, tức là nhà nước không tước bớt thành quả lao động chính đáng của người này để chia cho người khác. Trong phần lớn lịch sử loài người không có thuế thu nhập lũy tiến.

Thuế thu nhập cá nhân lạc hậu đang khiến gánh nặng đè nặng lên người làm công, ăn lương
ẢNH: ĐAN THANH
Thuế thu nhập lũy tiến bắt đầu từ nước Anh vào năm 1799 để tài trợ cho chiến tranh với Napoleon, nhưng ở mức rất thấp, chỉ từ 2% đến cao nhất là 10% thu nhập. Tại Mỹ, vào năm 1872, thuế thu nhập lũy tiến được áp dụng lần đầu trong Nội chiến cũng để tài trợ chiến tranh, nhưng thuế suất cũng rất thấp, chỉ từ 3 - 5% và bãi bỏ sau 10 năm áp dụng. Đến năm 1913, thuế thu nhập lũy tiến được tái áp dụng nhưng với thuế suất cũng rất thấp, chỉ từ 1 - 6% và thực tế chỉ có khoảng 1% người Mỹ chịu sắc thuế này vì ngưỡng miễn thuế cao và nhiều khoản khấu trừ.
Thuế thu nhập lũy tiến ở Mỹ bước vào thời kỳ nặng nề nhất là từ Đại chiến thế giới lần thứ 2 kéo dài đến trước thời cải cách thuế của Tổng thống Reagan. Trong Đại chiến 2, thuế thu nhập lũy tiến ở Mỹ có đến 24 bậc với mức thuế cao nhất lên tới 94%. Sau Đại chiến, từ năm 1945 - 1963, mức thuế cao nhất có giảm một chút, còn 82 - 92% với lũy tiến 20 bậc. Vào thời kỳ Kenedy, cắt mức thuế cao nhất xuống 70% với lũy tiến còn 15 bậc. Tiếp đó, vào thời kỳ trước Reagan (1964 - 1980), thuế suất cao nhất vẫn duy trì 70% với lũy tiến dao động từ 14 - 26 bậc.
Khi ông Reagan còn là tài tử điện ảnh ở Hollywood, thuế thu nhập cao nhất là 90%, ông đã phản ứng bằng cách không đi đóng phim khi thuế suất tăng cao. Ông nói không có lý do gì để đi làm cả. Khi trở thành tổng thống Mỹ, Reagan bắt đầu cải cách thuế. Đầu tiên, vào năm 1981, chính quyền của ông giảm thuế suất cao nhất từ 70% xuống 50%. Trong nhiệm kỳ thứ 2, vào năm 1986, ông giảm thuế suất cao nhất xuống còn 28% và đơn giản hệ thống chỉ còn 2 bậc (15% và 28%).
Sau thời ông Reagan, đến thời Tổng thống Bush (cha), thuế thu nhập lũy tiến lại tăng từ 2 lên 3 bậc với thuế suất cao nhất lên 31%. Ông Bush bị chỉ trích vi phạm cam kết "không tăng thuế" khi tranh cử.
Đến thời Tổng thống Clinton, thuế thu nhập phục hồi mạnh hơn lên 5 bậc lũy tiến với thuế suất cao nhất 39,6%.
Thời kỳ ông Bush (con) 2001 - 2009. Thuế thu nhập lũy tiến 6 bậc nhưng cắt giảm thuế suất cao nhất từ 39,6% xuống 35%.
Thời kỳ ông Obama. Thuế thu nhập lũy tiến tăng lên 7 bậc với mức thuế cao nhất tăng trở lại 39,6%.
Thời kỳ Tổng thống Trump 1.0. Tuy vẫn duy trì lũy tiến 7 bậc và giảm thuế suất cao nhất còn 37% nhưng mức khấu trừ tiêu chuẩn tăng gần gấp đôi so với trước, ước tính 94% số người nộp thuế được hưởng khoản khấu trừ này. Bước vào nhiệm kỳ 2, ông Trump tuyên bố sẽ miễn thuế thu nhập cho những người có thu nhập dưới 150.000 USD, tức là miễn thuế cho khoảng 93% người Mỹ trưởng thành (chủ trương này còn phải chờ luật). Ông còn tuyên bố, trước năm 1913 nước Mỹ không có thuế thu nhập, đó là thời kỳ người Mỹ "giàu có nhất", với hàm ý tài sản từ lao động của người Mỹ không bị mức thuế cao tước đoạt. Vì trước khi có thuế thu nhập cá nhân, nước Mỹ thu ngân sách chủ yếu từ thuế quan, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế tài sản.

Nhiều quốc gia áp dụng thuế thu nhập cố định không lũy tiến
ẢNH: REUTERS
Hiện tại, các nhà nước phúc lợi châu Âu và phần lớn các nền kinh tế lớn đều có thuế thu nhập lũy tiến với mức thuế cao ngất ngưởng: Pháp lũy tiến 5 bậc với thuế suất cao nhất 55,4%, Đức 4 bậc với thuế suất cao nhất 47,475%, Đan Mạch lũy tiến 3 bậc với thuế suất cao nhất 55,9%, Nhật Bản 7 bậc với thuế suất cao nhất 55,97%... Đây là thuế suất cận biên tối đa, tính cả phụ thu (riêng Đan Mạch và Nhật Bản còn tính thêm thuế địa phương).
Tóm lại, thuế thu nhập lũy tiến xuất phát từ mục đích ban đầu là tài trợ cho chiến tranh, sau đó để duy trì "chính phủ lớn" với nhiều sứ mệnh tự phong, trong đó có sứ mệnh "tái phân phối thu nhập". Ngày nay thuế thu nhập lũy tiến được áp dụng rộng rãi trên thế giới, nhiều người coi là "thông lệ quốc tế".
Gia đình trẻ làm công ăn lương mong sớm nâng mức giảm trừ gia cảnh thuế TNCN
Những quốc gia trở lại đạo lý ban đầu
Ngược lại, nhiều nước không có thuế thu nhập, và nhiều nước có thuế thu nhập nhưng rất thấp và không lũy tiến.
Các nước không có thuế thu nhập dù thu nhập bình quân đầu người của họ rất cao, tiêu biểu là UAE, Qatar, Kuwait, Ả Rập Saudi, Bahrain, Brunei… Nguồn thu ngân sách của những nước này dựa vào dầu mỏ, thuế quan, thuế tiêu thụ đặc biệt và du lịch.
Những quốc gia áp dụng thuế thu nhập cố định không lũy tiến với một thuế suất thấp, tiêu biểu là Romania (10%), Bulgaria (10%), Moldova (12%) Hungary (15%). Riêng Nga gần như cố định với 2 mức thuế (13% với thu nhập đến 5 triệu RUB/năm, tương đương với khoảng 52.000 USD, 15% đối với thu nhập trên 5 triệu RUB/năm).
Chúng ta nên chú ý những trường hợp như Romania. Với một thuế suất bằng 10%, nếu một người có thu nhập dưới 3.600 RON (khoảng 750 USD)/tháng) sẽ được khấu trừ gia cảnh tối đa là 1.310 RON (bao gồm miễn trừ 510 RON cho chính người nộp thuế) cộng với các khoản khấu trừ bảo hiểm (xã hội, y tế), chi phí làm từ thiện cũng được khấu trừ ở mức 5% thu nhập chịu thuế. Vì vậy, phần lớn những người có thu nhập ở mức này đều không phải nộp thuế vì thu nhập chịu thuế sau khi khấu trừ sẽ bằng 0 hoặc không còn bao nhiêu. Đối với thu nhập từ 3.600 đến 36.000 RON, tổng khấu trừ gia cảnh chỉ 510 RON/tháng bất kể có bao nhiêu người phụ thuộc, nhưng họ vẫn được khấu trừ bảo hiểm và chi phí làm từ thiện. Đối với thu nhập trên 36.000 RON/tháng (trên 7.500 USD), không được khấu trừ gia cảnh nhưng vẫn được khấu trừ bảo hiểm và từ thiện. Chính sách này là hợp lý, giảm mạnh nghĩa vụ thuế cho người thu nhập thấp và trung bình, nhưng hợp lý đối với người thu nhập cao. (Thuế suất duy nhất 10% của Romania được áp dụng từ năm 2018, trước đó cũng có thuế lũy tiến 2 bậc, phổ biến là 16% còn 18% chỉ áp dụng cho một số rất ít người có thu nhập rất cao).
Với chế độ thuế má nhẹ nhàng hợp lý, Romania từ một quốc gia có thu nhập trung bình khi chuyển từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, đã nhanh chóng trở thành quốc gia có thu nhập cao trong một thời gian tương đối ngắn. So sánh với điển hình của nhà nước phúc lợi là nước Pháp (thuế suất cao nhất của biểu thuế thu nhập là 55,4%), ta có thể thấy: Trong vòng 15 năm (2010 - 2024), thu nhập bình quân đầu người của Pháp từ chỗ gấp gần 5 lần Romania đã rút ngắn chỉ còn hơn 2 lần (4,85 lần năm 2010 xuống 2,36 lần năm 2024), do tốc độ phát triển của Romania nhanh hơn nhiều.
Tốc độ phát triển của Romania nhanh hơn Pháp và nhiều nước châu Âu chủ yếu là do thuế thấp, cải cách kinh tế theo hướng tự do hóa nhanh hơn và không bị câu thúc bởi mô hình nhà nước phúc lợi. Trong vòng 30 năm kể từ khi chuyển đổi năm 1990, thu nhập bình quân đầu người của Romania từ mức trung bình (1.629 USD, 1990) lên quốc gia có thu nhập cao vào năm 2020 (12.630 USD) và đạt 20.088 USD vào năm 2024. Nhìn vào lịch sử thế giới, ta có thể thấy Romania vượt qua bẫy thu nhập trung bình nhanh hơn rất nhiều nước, trong khi nhiều quốc gia thu nhập trung bình từ năm 1960, đến nay là 65 năm vẫn chưa thoát được, ví dụ như Thái Lan, Malaysia, Brazil, Mexico… Tốc độ thoát bẫy thu nhập trung bình của Romania còn nhanh hơn Hàn Quốc (34 năm), chỉ kém Singapore một chút (27 năm)…
Xin nói thêm một chuyện ngoài lề bài viết về cảm tình đặc biệt của Romania đối với sự phát triển của Việt Nam liên quan đến với nước ta ký kết Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA). Chúng ta đã đàm phán hiệp định này từ năm 2012, nhưng gặp rất nhiều trục trặc qua rất nhiều vòng đàm phán, trong đó có những trục trặc phi thương mại. Mãi đến năm 2019, nội dung hiệp định dù đã thỏa thuận nhưng EU vẫn không đưa vào chương trình nghị sự. Cho đến khi Romania làm chủ tịch luân phiên EU (1.1.2019 đến 30.6.2019), chính Romania đã chủ động đưa hiệp định này vào chương trình nghị sự và giúp ta ký được hiệp định này trong ngày cuối cùng Romania hết nhiệm kỳ.
Con đường nào cho Việt Nam?
Trong mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" mà nước ta đề ra thì "dân giàu" là trước tiên. Đối với kỷ nguyên mới, "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc" mà Tổng Bí thư Tô Lâm nhiều lần nhắc tới, thì trước hết cũng là sự giàu có thịnh vượng của nhân dân.
Chúng ta không có nhiều tài nguyên dồi dào như UAE, Qatar, Kuwait, Ả Rập Saudi, Bahrain, Brunei… để có thể không áp dụng thuế thu nhập cá nhân, nhưng nước ta cũng không theo mô hình nhà nước phúc lợi hay đặt ra nhiều sứ mệnh quốc tế tốn tiền để áp dụng thuế thu nhập lũy tiến với thuế suất cao. Chúng ta tuy chủ trương một xã hội "công bằng", nhưng là công bằng về cơ hội, chứ không chủ trương "tái phân phối thu nhập" theo kiểu lấy bớt của người giàu để chia cho người nghèo.

Thuế thu nhập cá nhân trong Kỷ nguyên mới cần kích thích tinh thần làm giàu của người dân
ẢNH: BÙI VĂN HẢI
Dự thảo luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) mà Bộ Tài chính vừa trình, tuy có giảm bớt gánh nặng thuế cho người lao động như sự giảm nhẹ là không nhiều. Và tuy rút bớt thang lũy tiến từ 7 xuống 5 nhưng vẫn giữ nguyên thuế suất cao nhất 35% là quá cao. Ngay cả Singapore, thuế suất bậc cao nhất của họ cũng chỉ 24% và chỉ áp dụng cho số ít dân số (thu nhập từ 760.000 USD/năm trở lên). Người nộp thuế có được những khoản khấu trừ gia cảnh rất lớn (vợ/chồng không thu nhập và con cái mỗi người được khấu trừ 4.000 SGD) và các khoản khấu trừ bảo hiểm, y tế, giáo dục cũng rất lớn. Người có thu nhập dưới 20.000 SGD/năm (tương đương 15.200 USD) được miễn thuế.
Việc giảm nhẹ thuế má, như Tổng Bí thư Tô Lâm từng chỉ ra là không những không giảm thu ngân sách mà ngược lại còn tăng. Vì nếu được giảm thuế, không những sức mua của xã hội tăng lên và người dân sẽ dùng tiền được giảm thuế này mang ra đầu tư phát triển.
Bởi vậy, việc cải cách thuế thu nhập cần triệt để bước vào kỷ nguyên mới với mục tiêu trước hết là "dân giàu". Các nhà tham mưu hoạch định chính sách thuế thu nhập có lẽ nên tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia như Romania và các quốc gia tăng trưởng nhanh tương tự. Người đứng đầu đất nước từng chỉ "điểm nghẽn của điểm nghẽn" là thể chế, nó còn hàm ý là phá bỏ luôn những điểm nghẽn kiềm hãm sự vươn lên giàu có của người dân.