Quy hoạch mạng lưới để tăng cường năng lực các trường đại học

Trước khi Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới phát triển cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) và trường sư phạm, lãnh đạo chính quyền các TP lớn đều cam kết dành quỹ đất cho trường ĐH trên địa bàn mình đạt chuẩn.

Tăng cường năng lực trường đại học Qua quy hoạch giáo dục đại học đến năm 2030 - Ảnh 1.

Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn

ẢNH:TRẦN HIỆP

Quy hoạch mạng lưới phát triển cơ sở GDĐH và trường sư phạm mà Chính phủ mới phê duyệt ngày 27.2 là đến năm 2030 tất cả cơ sở GDĐH và trường sư phạm (sau đây gọi chung là trường ĐH) đều đạt chuẩn. Ngoài ra, quy hoạch còn đặt ra một số mục tiêu cụ thể mang tính thách thức với thực trạng hệ thống GDĐH hiện nay. Trao đổi với Báo Thanh Niên, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Hoàng Minh Sơn (ảnh) cho biết Bộ GD-ĐT đã tính toán, làm việc kỹ với các bên liên quan để đảm bảo tính khả thi của quy hoạch.

HÀ NỘI, TP.HCM ĐỀU CAM KẾT ĐẢM BẢO QUỸ ĐẤT

Thưa Thứ trưởng, theo chuẩn trường ĐH, một tiêu chí được xem là thách thức hàng đầu hiện nay là diện tích đất. Áp lực này đặc biệt lớn với các trường ở Hà Nội, TP.HCM. Bộ GD-ĐT đã làm việc với các địa phương đó về vấn đề này chưa?

Tại buổi họp cuối cùng, trước khi Phó thủ tướng Nguyễn Thành Long ký phê duyệt quy hoạch, thì lãnh đạo 2 TP cũng đã được mời đến để cùng trao đổi. Qua đó chúng tôi được biết Hà Nội đã chuẩn bị đủ quỹ đất rồi. Thậm chí diện tích đất mà Hà Nội chuẩn bị cho GDĐH còn lớn hơn cả con số được đưa ra trong quy hoạch. TP.HCM cũng đã sẵn sàng bố trí quỹ đất.

Yêu cầu trong quy hoạch là tối thiểu, còn các địa phương có thể bố trí quỹ đất lớn hơn. Ngoài ra, quy hoạch còn đưa ra yêu cầu bố trí quỹ đất cho GDĐH ở các địa phương lân cận như Hưng Yên, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh… chứ không chỉ tập trung ở Hà Nội; rồi Bình Dương, Đồng Nai… chứ không chỉ ở TP.HCM.

Tăng cường năng lực các trường đại học - Ảnh 1.

TP.HCM và Hà Nội cam kết sẵn sàng bố trí quỹ đất cho giáo dục đại học. Trong ảnh: Cơ sở Hòa Lạc của ĐH Quốc gia Hà Nội

ẢNH: THÀNH LONG

Để đảm bảo tính khả thi, trong quy hoạch có danh mục các dự án trọng điểm, qua đó phát triển ĐH quốc gia, ĐH vùng, ĐH trọng điểm… Trong danh mục ưu tiên đầu tư có các chương trình phát triển, di dời các trường ĐH ra khỏi nội đô.

Ở nội thành Hà Nội hiện nay có những trường ĐH lớn, hoặc những trường có tiếng như ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐH Kinh tế quốc dân, Trường ĐH Ngoại thương, Trường ĐH Y Hà Nội…Vậy Hà Nội cho biết là họ sẽ bố trí quỹ đất cho những đơn vị này như thế nào, hay là phải di dời?

Nội dung quy hoạch này chưa trả lời cho các câu hỏi thực hiện cụ thể như nhà báo nêu. Quy hoạch chỉ đưa ra yêu cầu về quy mô, dựa trên chuẩn cơ sở GDĐH thì tính ra được diện tích đất mà các trường ĐH cần. Vấn đề này còn liên quan tới quy hoạch chi tiết thủ đô. Khi thực hiện thì Hà Nội sẽ phải cân nhắc. Bố trí các trường ĐH ở vùng nào, tỷ lệ bao nhiêu trong nội đô, tỷ lệ bao nhiêu ở ngoại đô, phần nào giữ, phần nào phải di dời ra ngoài để mở rộng… Đó sẽ là những việc được triển khai sau này.

SÁP NHẬP ĐỂ MẠNH LÊN CHỨ KHÔNG PHẢI ĐỂ GIẢM ĐẦU MỐI

Về phương án sắp xếp, phát triển các cơ sở GDĐH, quy hoạch đặt ra yêu cầu sắp xếp, thu gọn số đầu mối cơ sở GDĐH công lập. Kết quả cụ thể của việc sắp xếp, thu gọn đầu mối này sẽ như thế nào?

Quy hoạch không đưa ra con số cụ thể, mà chỉ đặt yêu cầu chung là thu hẹp, giảm đầu mối. Về nguyên lý, trong một hệ thống, nếu như số đầu mối ít đi thì việc đầu tư, việc giám sát thực hiện sẽ hiệu quả hơn. Việc giảm đầu mối sẽ theo cơ chế đúng như luật GDĐH ghi, là trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng giữa các trường. Các trường ĐH cạnh tranh trong môi trường bình đẳng, nếu trường nào đào tạo nghiên cứu tốt trong lĩnh vực được đặt làm trọng tâm, tức là đạt hiệu quả tốt trong lĩnh vực đó, thì nhà nước tập trung đầu tư vào đó thay vì đầu tư dàn trải. Sẽ có một lộ trình để các trường ĐH thể hiện năng lực, với cơ chế cạnh tranh như vậy trường nào không đạt chuẩn sẽ bị đào thải. Đó là một cách để giảm đầu mối.

Tăng cường năng lực các trường đại học - Ảnh 3.

Quy hoạch mạng lưới ĐH là để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo của quốc gia

ẢNH: ĐỨC MINH

Có một cách khác để giảm đầu mối là hợp nhất một số trường để tạo ra cơ sở GDĐH đa ngành, đa lĩnh vực có quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu tốt hơn sự phát triển của các địa phương, khi phát triển ĐH vùng. Quan trọng không phải là giảm đầu mối mà là tăng cường năng lực cho các trường ĐH.

Chúng ta đã từng sáp nhập Trường ĐH An Giang vào ĐH Quốc gia TP.HCM, sáp nhập Trường CĐ Hà Nam vào Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Bộ GD-ĐT đã có bài học kinh nghiệm nào từ các đơn vị đã sáp nhập?

Trong quá trình xây dựng quy hoạch thì nhóm soạn thảo đã nghiên cứu các bài học từ các đơn vị đã sáp nhập, những bài học này đều được nêu trong báo cáo khi xây dựng dự thảo quy hoạch. Bài học rút ra là phải làm thế nào để việc sáp nhập không diễn ra một cách cơ học. Sáp nhập để mạnh lên, chứ không phải sáp nhập để giảm đầu mối hay để phình to ra một đơn vị nào đó. Bài học còn là không nên chỉ hướng tới mục tiêu duy nhất là giảm số lượng, quan trọng hơn là giảm thế nào để tăng cường năng lực cho các trường mạnh hơn. Chấp nhận trường nào yếu thì phải giải thể.

ĐỂ THU HÚT ĐƯỢC NGƯỜI GIỎI Ở LẠI TRONG NƯỚC LÀM TIẾN SĨ

Trong quy hoạch có đưa mục tiêu đến năm 2030 chúng ta có khoảng 25 - 30 cơ sở GDĐH nghiên cứu. Vậy khi các trường ĐH trở thành ĐH nghiên cứu thì họ sẽ được lợi ích gì?

Khi đặt ra mục tiêu đó, trước hết chúng ta nhìn vào lợi ích của đất nước. Quy hoạch mạng lưới là để phát triển GDĐH. Sứ mạng GDĐH là phát triển nguồn nhân lực chất lượng, khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo của quốc gia. Cho nên đừng nói lợi ích các trường trước. Đây là quy hoạch để nhà nước đầu tư, khi đầu tư thì chọn trọng tâm, trọng điểm. Vì vậy mà quy hoạch sẽ chọn 50 - 60 trường có đào tạo trình độ tiến sĩ - trình độ cao nhất của GDĐH. Nếu trong 50 - 60 trường đó chúng ta không có được 25 - 30 trường (tức 50%) theo định hướng nghiên cứu thì sẽ rất khó khăn trong việc phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ để thực hiện những chiến lược đặt ra, những định hướng đưa ra trong Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị.

Nội dung được nhấn mạnh trong quy hoạch là phát triển mạng lưới trường ĐH STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán học) đạt quy mô hơn 1 triệu người học, trong đó khoảng 1% trình độ tiến sĩ. Làm thế nào để đạt được con số 1% này, đặc biệt là làm sao để thu hút được người giỏi ở lại trong nước làm tiến sĩ?

Quy hoạch là tạo ra năng lực để thực hiện, chứ không phải là giải pháp duy nhất. Năng lực để đạt chính là ở các nội dung đầu tư cho các trường ĐH trọng tâm, trọng điểm cấp quốc gia, vùng, lĩnh vực… Quy hoạch là để đầu tư vào các lĩnh vực đó để tăng cường năng lực nghiên cứu. Đào tạo sau ĐH, đào tạo tiến sĩ là phải gắn với năng lực nghiên cứu. Trong phần giải pháp, quy hoạch đã đề xuất chính sách làm sao tăng cường năng lực nghiên cứu cho các trường. Chúng ta sẽ có những giải pháp khác ngoài quy hoạch.

Trong đó đẩy mạnh - tăng cường năng lực nghiên cứu cho các trường ĐH là một giải pháp quan trọng. Chẳng hạn muốn tăng số lượng người học sau ĐH (thạc sĩ, tiến sĩ), trước hết phải có cơ chế chính sách hỗ trợ người học như chính sách học bổng, miễn - giảm học phí. Phải có đề tài nghiên cứu cho nghiên cứu sinh, để họ được thực sự tham gia nghiên cứu.

Để thu hút được người giỏi ở lại trong nước làm tiến sĩ, yếu tố tiên quyết là phải có đội ngũ giảng viên giỏi. Muốn vậy phải có những giải pháp để thu hút và phát triển đội ngũ giảng viên như chế độ lương bổng, điều kiện làm việc, ưu đãi về thuế, tạo vị thế xứng đáng cho họ, phải có đề tài để được nghiên cứu…. Phải đầu tư về cơ sở vật chất. Phải có giải pháp tổng thể chứ không chỉ dựa vào một giải pháp hay quy hoạch này.

Giải thể trước năm 2030 cơ sở, phân hiệu không đạt chuẩn

Theo quy hoạch, chấm dứt hoạt động trước năm 2028 và giải thể trước năm 2030 đối với cơ sở, phân hiệu của cơ sở không đạt chuẩn hoặc không hoàn thành xác lập vị trí pháp lý theo quy định của pháp luật.

Một phương án khác là sắp xếp, thu gọn số đầu mối. Nhà nước chỉ xem xét thành lập trường ĐH công lập mới khi có yêu cầu cấp thiết và có đủ điều kiện thuận lợi trong các trường hợp như thành lập tại một số vùng có mức độ tiếp cận ĐH thấp (Tây Bắc, Nam Trung bộ, Tây nguyên và ĐBSCL), hoặc tổ chức lại một số trường đào tạo, bồi dưỡng trực thuộc bộ, ngành... hoặc có chủ trương thành lập được cấp có thẩm quyền phê duyệt và còn trong thời hạn theo quy định trước thời điểm quy hoạch này có hiệu lực thi hành.

Theo quy hoạch, định hướng số lượng cơ sở GDĐH trên toàn quốc là 172 - 176 trường công lập, 68 - 72 trường tư thục. Hiện nay, cả nước có 174 trường công lập.

Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao