ĐH quốc gia là cơ sở giáo dục ĐH công lập do Bộ GD-ĐT quản lý
Từ 1.9, đại học (ĐH) quốc gia chính thức do Bộ GD-ĐT quản lý, theo Nghị định 201 Quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của ĐH quốc gia được Chính phủ ban hành ngày 11.7, có hiệu lực từ 1.9, thay thế cho Nghị định 186 năm 2013. Chính sách giáo dục mới này ra đời trong bối cảnh đất nước sắp xếp lại tỉnh, thành, các cơ quan, đơn vị hành chính.
Theo đó, Nghị định 201 quy định rõ hơn về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế của ĐH Quốc gia, đồng thời nhấn mạnh vai trò của ĐH Quốc gia trong việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tân sinh viên tham quan khu đô thị ĐH Quốc gia TP.HCM. Theo chính sách giáo dục mới, ĐH Quốc gia TP.HCM và ĐH Quốc gia Hà Nội là 2 đơn vị thuộc Bộ GD-ĐT. Trước đó 2 đơn vị này chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Thủ tướng Chính Phủ
ẢNH: X.T
Cụ thể, ĐH quốc gia là cơ sở giáo dục ĐH công lập do Bộ GD-ĐT quản lý, có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng và sử dụng con dấu có hình Quốc huy.
ĐH quốc gia có chức năng đào tạo các trình độ của giáo dục ĐH, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao; có một số lĩnh vực đào tạo dẫn đầu trong nước và được xếp hạng cao trên thế giới.
ĐH quốc gia chịu sự quản lý nhà nước của Bộ GD-ĐT, Bộ Khoa học và Công nghệ, các bộ, ngành khác và UBND các cấp nơi đại học quốc gia đặt trụ sở theo quy định của pháp luật.
Về nhân sự, ĐH quốc gia thực hiện quy trình về công tác nhân sự để báo cáo Bộ GD-ĐT trình Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm chủ tịch hội đồng, giám đốc, phó giám đốc. Đồng thời được ban hành quy định về chế độ làm việc của giảng viên, nghiên cứu viên để thu hút, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước và quốc tế.
Về đào tạo, ĐH Quốc gia được xây dựng, triển khai các chương trình đào tạo thực hành, chuyên, đặc biệt, năng khiếu, tài năng ở tất cả các trình độ đào tạo nhằm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài khoa học và công nghệ; triển khai các chương trình đào tạo đã được thực hiện trong nước ra nước ngoài thông qua các chương trình hợp tác, liên kết quốc tế phù hợp quy định của pháp luật.
Đặc biệt, ĐH quốc gia là đơn vị dự toán cấp I được Thủ tướng Chính phủ giao dự toán ngân sách, được Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển để thực hiện nhiệm vụ chiến lược quốc gia, nhiệm vụ phát triển vùng của đất nước.
Hiện nay cả nước có 2 hai ĐH quốc gia, trong đó, ĐH Quốc gia Hà Nội (thành lập năm 1993), gồm 13 trường ĐH, trường và khoa thành viên; và ĐH Quốc gia TP.HCM (thành lập năm 1995), gồm 9 trường ĐH, viện và phân hiệu. Tổng quy mô đào tạo của 2 ĐH lên tới hàng trăm ngàn sinh viên.
Giáo viên, giảng viên dạy tiếng nước ngoài cần có năng lực ra sao?
Chính phủ ban hành Nghị định số 222 quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong cơ sở giáo dục, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25.9, thay cho Quyết định số 72 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác và Thông tư số 16 năm 2016 của Bộ GD-ĐT hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Quyết định số 72.
Theo đó, nghị định này quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong cơ sở giáo dục, bao gồm nguyên tắc dạy và học bằng tiếng nước ngoài; yêu cầu đối với việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài về chương trình, giáo trình, tài liệu, người dạy, người học, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, thi, kiểm tra, đánh giá, bảo đảm chất lượng, học phí và quản lý học phí...

Việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài từ bậc tiểu học đến ĐH sẽ áp dụng quy định mới
ẢNH: N.L
Nghị định này không điều chỉnh đối với việc dạy và học môn học ngoại ngữ, học phần ngoại ngữ; việc thực hiện liên kết giáo dục; liên kết đào tạo trình độ ĐH, thạc sĩ, tiến sĩ với nước ngoài; dạy chương trình của giáo dục nước ngoài. Đồng thời không áp dụng đối với các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện chương trình giảng dạy toàn bộ bằng tiếng nước ngoài trong giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục ĐH.
Cụ thể, giáo viên dạy cấp tiểu học, THCS phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương; giáo viên dạy cấp THPT phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 5.
Giảng viên giảng dạy các trình độ giáo dục ĐH phải có trình độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu giảng dạy của chương trình đào tạo, tối thiểu bậc 5. Tương tự, các trình độ của giáo dục nghề nghiệp cũng tối thiểu bậc 5.
Nghị định cũng quy định người được đào tạo ĐH, thạc sĩ, tiến sĩ toàn thời gian ở nước ngoài với ngoại ngữ là ngôn ngữ giảng dạy và có văn bằng tốt nghiệp được công nhận theo quy định hoặc có bằng tốt nghiệp cử nhân ngoại ngữ, sư phạm ngoại ngữ tại Việt Nam được miễn yêu cầu về năng lực ngoại ngữ.