Sáng nay 9.12, tại tọa đàm "Đào tạo truyền thông từ Đổi mới đến Kỷ nguyên mới” nằm trong chuỗi hoạt động kỷ niệm 40 năm ngày Báo Thanh Niên phát hành số đầu tiên, các chuyên gia đến từ các trường ĐH có đào tạo ngành đã trao đổi nhiều nội dung thiết thực.
Đứt gãy giữa năng lực truyền thống và năng lực kỷ nguyên số
Có mặt tại tọa đàm, tiến sĩ Võ Văn Tuấn, Phó hiệu trưởng thường trực, Trưởng khoa Quan hệ công chúng – Truyền thông Trường ĐH Văn Lang, nhận định sự chuyển dịch nhanh của công nghệ truyền thông, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn và hệ sinh thái nền tảng số, đang tạo ra khoảng cách ngày càng rõ giữa năng lực đào tạo truyền thống và nhu cầu nhân lực thực tiễn.

Sinh viên ngành truyền thông tại tọa đàm
ẢNH: MỸ QUYÊN
"Đào tạo truyền thông đang đứng trước sự đứt gãy giữa năng lực truyền thống và năng lực cần thiết của kỷ nguyên số. Ở góc độ đào tạo ĐH, đây không còn là câu chuyện nên đổi mới hay không, mà là đổi mới nhanh đến mức nào, theo mô hình nào, và lấy chuẩn năng lực nào làm cơ sở", tiến sĩ Tuấn cho hay.
Theo tiến sĩ Tuấn, có 3 yếu tố đang định hình lại toàn bộ ngành truyền thông hiện nay. Đó là sự bùng nổ công nghệ như AI, dữ liệu lớn, công cụ sáng tạo nội dung số thay đổi tốc độ sản xuất truyền thông. Đó là sự thay đổi hành vi công chúng, khi Gen Z, Gen Alpha tiếp nhận thông tin qua video ngắn, nền tảng di động, và có mức kỳ vọng tương tác rất cao.
Và thứ 3 là sự chuyên môn hóa nhân lực trong ngành. Doanh nghiệp không còn tìm người làm truyền thông chung chung, mà cần những nhà sáng tạo nội dung, truyền thông dựa trên dữ liệu, nhà sáng tạo dựa vào công nghệ cụ thể là AI.

Tiến sĩ Võ Văn Tuấn chia sẻ về những thách thức và giải pháp trong đào tạo truyền thông
ẢNH: ĐỘC LẬP
Từ đó, ông Tuấn chỉ ra 4 nhóm thách thức lớn đang cản trở sự phát triển đồng bộ của đào tạo truyền thông tại Việt Nam: Một là khoảng cách giữa giáo dục và nhu cầu nhân sự. Doanh nghiệp yêu cầu cao về khả năng thực hành, tốc độ và năng lực công nghệ, trong khi nhiều chương trình vẫn nặng về lý thuyết.
Hai là cạnh tranh tuyển sinh ngày càng khốc liệt. Sự gia tăng nhanh số cơ sở đào tạo truyền thông khiến thương hiệu, năng lực thực hành và mức độ kết nối nghề trở thành điểm quyết định.
Ba là thiếu chuẩn năng lực nghề nghiệp chung. Sự khác biệt giữa các chương trình đào tạo làm giảm tính tương thích và chuẩn hóa chất lượng và bốn là lực đầu tư cơ sở vật chất khi ngành truyền thông đòi hỏi studio, newsroom, phòng lab, phần mềm và thiết bị có chi phí lớn, không phải trường nào cũng đủ nguồn lực.
Đào tạo truyền thông chuyển từ "dạy nghề" sang đào tạo năng lực
Tiến sĩ Võ Văn Tuấn đã đưa ra các đề xuất để giải quyết những thách thức trong đào tạo truyền thông hiện tại. Theo ông Tuấn, trước mắt cần xây dựng hệ sinh thái thực hành – doanh nghiệp đồng kiến tạo. Cụ thể, không chỉ hợp tác mà doanh nghiệp phải tham gia sâu vào cấu trúc môn học, giao nhiệm vụ thật, đánh giá thật.
"Chẳng hạn như việc hợp tác đào tạo với Báo Thanh Niên mà trường đang triển khai là một ví dụ. Bên cạnh đó, đẩy mạnh đào tạo giảng viên theo hướng sư phạm công nghệ. Giảng viên cần thành thạo công cụ sản xuất mới, hiểu nguyên lý ứng dụng AI trong quy trình nghề, cập nhật xu hướng truyền thông qua học liệu mở – hội thảo – workshop quốc tế", tiến sĩ Tuấn chia sẻ.
Đặc biệt, theo tiến sĩ Tuấn, cần chuyển từ “đào tạo ngành” sang “đào tạo năng lực”. Thay vì hỏi "sinh viên được học gì?" thì cần trả lời câu hỏi "sinh viên có thể làm gì, bằng công cụ gì, trong bối cảnh nào?". Cách tiếp cận này giúp cá nhân hóa trải nghiệm học tập, tăng tương tác, và chuẩn bị năng lực số bền vững cho người học.
Bên cạnh đó, cần tăng cường vai trò của báo chí - truyền thông chuyên nghiệp, có sự tham gia của cơ quan báo chí truyền thông trong đào tạo qua workshop, mô phỏng tòa soạn, thực tập, giảng viên thỉnh giảng… giúp sinh viên hiểu nghề – làm nghề – yêu nghề từ sớm.
"Trường ĐH Văn Lang cũng đang đổi mới về vai trò giảng viên, đổi mới phương pháp học tập, và đổi mới triết lý đào tạo, đi theo hướng dịch chuyển từ 'dạy nghề' sang 'dạy tư duy truyền thông', đào tạo người học có năng lực học suốt đời, tư duy phản biện, khả năng tái thích ứng nhanh khi công nghệ và thị trường thay đổi", tiến sĩ Tuấn thông tin.