Tục lệ hay đầu năm: Đại lễ khai ấn

Có nhiều thuyết cho rằng những nghi lễ phong ấn, khai ấn có từ thời Trần, nhưng chính sử không ghi lại rõ ràng. Vào thời Lê, trong bộ sách Lê triều hội điển cũng có nhắc đến nhưng không ghi chi tiết.

CHỌN NGÀY TỐT KHAI ẤN

Sử sách triều Nguyễn cho biết lệ phong ấn, khai ấn ở thời nhà Nguyễn được thực hiện từ cuối năm Gia Long thứ nhất (1802). Đại Nam thực lục viết triều đình quy định: "Mỗi năm lấy ngày 25 tháng chạp thì phong ấn, sang năm chọn ngày tốt vào thượng tuần tháng giêng khai ấn. Ở các nha cũng lấy những ngày ấy phong hay khai ấn triện".

Tục lệ hay đầu năm: Đại lễ khai ấn- Ảnh 1.

Vua Minh Mạng rất coi trọng lễ khai ấn (Tranh của John Crawfurd)

ẢNH: Tư liệu của Lê Nguyễn

Theo ghi chép của bộ sử này về năm Gia Long thứ 5 (1806) thì trước đó, ngày phong ấn cũng là ngày ban lịch. Đến năm 1804 được đổi thành là phong ấn hôm trước, ban lịch hôm sau. Từ năm 1806 trở đi thì quy định lấy ngày mùng 1 tháng chạp làm ngày ban lịch.

Đến năm Gia Long thứ 7 (1808), Bộ Lễ tâu lên vua rằng: Trước nay đầu năm khai ấn duyệt binh, cuối năm yết lăng, tế chạp và khóa ấn, đều để tới kỳ mới chọn ngày lành. Nay xin lấy ngày nhất định. Vua nghe lời tâu, chuẩn định mỗi năm cứ ngày mùng 7 tháng giêng thì khai ấn, sai quan xuất binh, ngày 13 tháng chạp yết lăng, 14 tế chạp, 25 tháng chạp khóa ấn. Lấy sang năm (1809) bắt đầu thực thi.

Trong thời gian phong ấn để nghỉ tết, các ấn đều được niêm phong cất kỹ, công văn giấy tờ bình thường đều chờ đến ngày khai ấn mới đóng ấn triện. Theo quy định ban hành cuối năm Minh Mạng thứ 4 (1823), phàm giấy tờ của các nha môn đáng phải làm mà trong năm chưa làm xong đều phải làm sớ xin hoãn đến sang năm mới, sau ngày khai ấn mới tiếp tục làm.

Đến năm Minh Mạng thứ 11 (1830), nhà vua lại chuẩn định từ đó về sau, phàm sau ngày phong ấn, Lục bộ, Nội các và các nha gặp có dụ chỉ, chương sớ, tất cả những việc cần làm thì cứ theo lệ tâu lên, dùng ấn vàng mà thi hành, đến ngày khai ấn thì truy dùng ấn triện quan phòng (ấn chức vụ của các quan).

Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), Bộ Hộ tâu xin các nơi kho tàng như sở Nội vụ, vũ khố, kho thuốc súng… các dấu ấn tín ngày tết không cần phải niêm phong về bộ, mà giao cho quản viên giữ để tiện việc làm công văn xuất, nhập. Nhà vua nói rằng: Nếu do bộ giữ cả ấn thì đến lúc có việc lại lịch kịch rầy rà. Vậy chuẩn định: Phàm đến cuối năm phong ấn phủ Nội vụ, kho Nội tàng, kho Thương trường thì do Bộ Hộ; vũ khố, kho thuốc súng thì do Bộ Binh, một viên đường quan trong các bộ ấy đem ấn triện hiện hành ở bộ, hội đồng với quản quan kính cẩn niêm phong; đến ngày khai ấn lại hội đồng xét dấu niêm phong rồi mở niêm phong. Còn lúc việc thường thì niêm phong hay mở phong đều cho quản viên theo việc mà làm.

NHỮNG THAY ĐỔI NGÀY KHAI ẤN

Cuối năm 1831, vua Minh Mạng cho rằng các tỉnh từ Quảng Trị trở ra Bắc lúc đầu mới chia đặt quan chức, việc thay thế bàn giao còn bề bộn, chuẩn cho đến ngày 30 tháng chạp thì phong ấn; ngày mùng 1 tháng giêng sang năm thì khai ấn. Điều này cũng được áp dụng trong dịp tết năm Minh Mạng thứ 16 (1835) ở 6 tỉnh miền Nam, khi quân triều đình nhà Nguyễn đang dẹp cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi. Khi đó, vua yêu cầu ngày 30 tháng chạp phong ấn, đến ngày mùng 1 tháng giêng mở ra sử dụng.

Nhà vua cũng chuẩn định từ ngày phong ấn đến ngày khai ấn, văn võ đại thần đều được miễn túc trực ban đêm; ngày 30 tết và 3 ngày Tết Nguyên đán đều miễn các quan vào trực tiến bài. Tất cả tấu sớ nếu không phải là việc quan trọng khẩn cấp nên tâu đệ thì đều cho hoãn đến ngày mùng 4 sẽ tiến trình.

Lễ Khai ấn để chính thức trở lại làm việc sau kỳ nghỉ tết được coi là đại lễ của triều đình. Quy chế ban hành đầu triều vua Minh Mạng đặt lễ này ngang với nghi lễ các tiết lớn nhất gồm tiết Vạn thọ (sinh nhật vua), Chính đán (Tết Nguyên đán), Đoan dương (mùng 5 tháng 5), các lễ ban cờ mao tiết, xuất quân, thệ trai (tuyên thệ).

Theo đó, từ canh 5 ngày hôm ấy, sau khi nổi 3 hồi trống và phát ống lệnh, hữu ty đặt đại triều nghi ở sân điện Thái Hòa, đặt thường triều nghi ở sân điện Cần Chính. Quan nghi lễ gửi lời tâu lên: "Trong nghiêm ngoài biện" thì thị vệ rước kiệu vua vào. Điện Cần Chính nổi chuông trống thì nhà vua lên kiệu. Trên kỳ đài phát 9 tiếng trống lệnh, vua ngự lên ngai thì chuông trống ngừng. Các quan làm lễ khánh hạ.

Đến thời vua Tự Đức, vào năm 1874, nhà vua lại cho đổi lịch nghỉ Tết Nguyên đán từ ngày 28 tháng chạp, đến ngày 8 tháng giêng khai ấn bắt đầu năm mới. (còn tiếp)


(Trích từ sách Tết chốn vàng son do NXB Tổng hợp TP.HCM vừa ấn hành)

Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao