Vì bối cảnh lịch sử, văn học Áo ghi dấu ấn tương đối muộn trên bản đồ văn chương thế giới, nhưng toàn sản sinh những tên tuổi lớn như Stefan Zweig, Rainer Maria Rilke, Thomas Bernhard, Joseph Roth… Trong thế kỷ 21, nước Áo có đến hai nhà văn đoạt giải Nobel, vẫn còn sống, đó là Elfriede Jelinek (Nobel 2004) và Peter Handke (Nobel 2019).
Văn chương Áo không chỉ gói gọn trong biên giới quốc gia mà còn chịu ảnh hưởng từ di sản của Đế chế Habsburg, giao thoa với văn chương viết bằng tiếng Đức, nổi bật nhờ những đặc điểm như tính đa âm, phong phú về hình thức, các yếu tố kỳ lạ, phi lý và tư duy phê bình chính trị cấp tiến.

Ba lối tới hồ là tập truyện ngắn vừa vặn để bước vào thế giới văn chương của Ingeborg Bachmann
Ảnh: N.D
Ngày càng có nhiều nữ nhà văn người Áo gây tiếng vang trên văn đàn. Trong đó, phải kể đến Ingeborg Bachmann là một trong những nữ văn sĩ tiên phong trong thời kỳ sau Thế chiến 2. Bachmann sinh năm 1926 tại Klagenfurt (Áo). Bắt đầu viết thơ từ năm 10 tuổi, bà chọn theo học ngành Triết và bảo vệ luận án tiến sĩ về triết gia Martin Heidegger. Giai đoạn đầu sự nghiệp, Bachmann được biết đến nhờ những bài thơ trữ tình. Tuy nhiên, về sau, Bachmann tuyên bố từ bỏ thơ ca để chuyển sang văn xuôi. Năm 1973, bà qua đời trong một vụ hỏa hoạn tại nhà riêng.
Nếu không tính những tuyển tập thơ, các tác phẩm văn xuôi của Bachmann không nhiều, gồm tiểu thuyết Malina (1971), tập truyện ngắn The Thirtieth Year (tạm dịch: Năm thứ mười ba, 1961), Ba lối tới hồ (1972) và một dự án dang dở có tên Ways of Dying (tạm dịch: Những cách chết) gồm các tiểu thuyết liên kết với nhau về chủ đề, trong đó Malina là tập đầu tiên.
Văn chương của Bachmann xoáy sâu vào sự bất cập của ngôn ngữ, đánh giá lại mối quan hệ giữa người Áo và di sản lịch sử đế chế, cũng như cảm giác lạc lõng, hoang mang, cùng những rối loạn tâm lý của phụ nữ trong xã hội hiện đại. Bà có giọng kể đặc trưng với lối viết "dòng ý thức", những câu văn ngắn rượt đuổi nhau, nghĩa của từ trượt đi, thời gian, không gian thay đổi dựa vào dòng hồi tưởng của nhân vật. Vì thế, một số độc giả có thể sẽ cảm thấy truyện của bà khó theo dõi.
Những mảnh vỡ của ký ức và bản thể
Ba lối tới hồ gồm năm truyện ngắn với các nhân vật nữ trải dài ở mọi độ tuổi, có thể thất nghiệp hoặc có một sự nghiệp thành công, có thể đã kết hôn hoặc đang độc thân. Nhưng điểm chung là họ luôn làm và nghĩ quá nhiều thứ cùng một lúc. Họ không bao giờ ở yên một chỗ, họ chu du giữa các quốc gia, hoặc chu du trong tâm trí, giữa những mối quan hệ và dòng thời gian.
Tình trạng hoang mang, đổ vỡ của họ là có lý do, đặt trong bối cảnh nước Áo đang đổi thay khi cả châu Âu sắp xếp lại trật tự sau Thế chiến 2. Trong thế kỷ 20, Áo trải qua nhiều biến động lịch sử, gắn liền với sự tan rã của Đế chế Áo - Hung, một trong những đế chế hùng mạnh nhất châu Âu. Vượt qua 2 cuộc Thế chiến, nước Áo vẫn mang theo những di sản phức tạp của quá khứ đế chế và chủ nghĩa phát xít. Đây là một trong những chủ đề ám ảnh các thế hệ nhà văn Áo sau này, trong đó có Bachmann.
Một số nhân vật của bà, dù thành công trong cuộc sống, dường như luôn khao khát cảm giác được thuộc về một đế chế lớn, nơi là quê hương của nhiều ngôn ngữ và văn hóa, thế nên họ không thể hài lòng với hiện tại. Chẳng hạn, trong truyện ngắn Dịch các từ, nhân vật Nadja là một thông dịch viên thông thạo nhiều ngôn ngữ, đang trên chuyến hành trình xuyên châu Âu để tham dự các hội nghị. Theo diễn biến câu chuyện, Nadja di chuyển tới những địa điểm mới, trò chuyện bằng tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Anh... Nhưng cô không tìm được sự an ủi trong bất kỳ ngôn ngữ nào. Và hành trình của Nadja (nghĩa là "hy vọng" trong tiếng Nga) chỉ khép lại khi cô nhận ra có những phép màu nằm ngoài ngôn ngữ.
Câu chuyện Ba lối tới hồ, truyện ngắn cuối cùng và chiếm dung lượng dài nhất trong tuyển tập, viết về Elisabeth - một nhà báo ở ngưỡng tuổi 50, đã đạt thành tựu trong đời, nay trở về quê nhà để thăm cha. Nhưng nhịp sống bình lặng ở thôn quê không thể làm tâm trí bà thôi chuyển động. Bà hồi tưởng về những năm tháng bôn ba khắp châu Âu, về những người đàn ông mình gặp, về sự nghiệp báo chí, nhiếp ảnh và chiến tranh. Đây là câu chuyện có nhiều chi tiết lấy từ chính cuộc đời của Bachmann. Các nhân vật mang trong mình những cảm xúc riêng về thời cuộc, các mốc thời gian 1914 (năm bắt đầu Thế chiến 1), 1938 (năm Đức sáp nhập Áo) được nhắc đi nhắc lại, quá khứ đế chế luôn lẩn khuất đâu đây, cuộc chiến ở Algeria được đề cập, những suy tư về quốc tịch và căn tính trôi nổi giữa dòng độc thoại… Dường như cái bóng của chiến tranh và lịch sử luôn đè nặng lên họ dù hiện tại có vẻ yên bình. Qua đó, Bachmann không trực tiếp thể hiện quan điểm chính trị nhưng cũng âm thầm kêu gọi một thái độ đối mặt, nhìn nhận thẳng thắn vào lịch sử.
Nhìn chung, Ba lối tới hồ là tập truyện ngắn vừa vặn để độc giả có thể làm quen với thế giới văn chương của Ingeborg Bachmann, qua loạt truyện ngắn khắc họa nội tâm của những phụ nữ sống thời hậu chiến, từ đó chất vấn, đối mặt với một lịch sử phức tạp của đất nước Áo trong bối cảnh thế giới đang thay đổi chóng mặt.