'Phủ biên tạp lục' và chủ quyền của nước ta trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa

Phủ biên tạp lục có nghĩa là "ghi chép việc vỗ yên dân ở vùng biên cảnh". Bộ sách là một tác phẩm Bách khoa thư, nhưng được Lê Quý Đôn hoàn thành chỉ trong khoảng 6 tháng. Bản thảo chữ Hán nguyên bản được lưu giữ tại Thư viện Viện Khảo cổ Sài Gòn (hiện còn lại 6 quyển). Sách được xuất bản lần đầu năm 1972 qua bản dịch của Lê Xuân Giao.

Sau này, Viện Sử học đã giám định, phiên dịch và hiệu đính công phu, xuất bản thành sách vào năm 1977, là tập 1 của bộ Lê Quý Đôn toàn tập. Từ đó đến nay, do vai trò quan trọng của tác phẩm nên Phủ biên tạp lục được tái bản nhiều lần bởi các nhà xuất bản khác nhau.

Theo bộ 6 quyển thì quyển 2: Hình thế núi sông, thành lũy, trị sở, đường sá, bến đò, nhà trạm hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam là quyển chứa các ghi chép mô tả kỹ càng nhất về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tài liệu cổ quan trọng về Hoàng Sa và Trường Sa

Những ghi chép về Hoàng Sa và Trường Sa của Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục được đánh giá là tài liệu cổ quan trọng, tập trung vào 3 vấn đề chính:

Về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Lê Quý Đôn viết: "Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh ở gần biển, ngoài biển về phía đông bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, ước hơn 30 dặm, bằng phẳng, rộng lớn, nước trong suốt đáy. Bên đảo có vô số yến sào, các thứ chim có hàng nghìn, hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh. Bên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân thì có ốc tai voi, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà…" (Lê Quý Đôn; Phủ biên tạp lục, bản dịch Viện Sử học; NXB Văn hóa Thông tin, năm 2007, trang 154).

'Phủ biên tạp lục' và chủ quyền của nước ta trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Ảnh 1.

Gian thờ Lê Quý Đôn tại Khu lưu niệm nhà bác học Lê Quý Đôn ở thôn Đồng Phú, xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên

ẢNH: TƯ LIỆU

'Phủ biên tạp lục' và chủ quyền của nước ta trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Ảnh 2.

Sách Phủ biên tạp lục xuất bản ở Sài Gòn năm 1972

ẢNH: TƯ LIỆU

Ông mô tả đặc điểm và hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải: "Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiến, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về…" (sách đã dẫn, trang 155).

… "Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, cũng sai Cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được" (sách đã dẫn, trang 155).

Lê Quý Đôn cũng đã tham khảo các nguồn tài liệu trước đó, như tập bản đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ của Đỗ Bá Công Đạo (giữa thế kỷ 16), ghi chú về "Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) dài độ bốn trăm dặm, rộng hai mươi dặm, dựng đứng giữa biển...".

Có một sự kiện lịch sử mà Lê Quý Đôn ghi lại cụ thể đã chứng minh sự nhận biết và tôn trọng chủ quyền của triều đình Trung Quốc đối với hoạt động của ngư dân VN: Năm Càn Long thứ 18 (1753), có 10 lính của đội Hoàng Sa (được gọi là "quân nhân xã An Vĩnh, đội Cát Vàng" trong công văn) bị gió dạt vào Thanh Lan cảng (thuộc phủ Quỳnh Châu, Hải Nam). Quan lại nhà Thanh đã xét thực và đưa trả về nguyên quán theo yêu cầu của chúa Nguyễn Phúc Chu. Sự việc này cho thấy chính quyền Trung Quốc thời bấy giờ đã biết rõ về hoạt động của đội Hoàng Sa và đã có sự trao đổi công văn với chính quyền Thuận Hóa (Đàng Trong), đồng thời tôn trọng hoạt động thực thi chủ quyền của VN trên quần đảo này.

Việc Lê Quý Đôn ghi chép lại hoạt động của đội Hoàng Sa - một đội dân binh được tổ chức theo hình thức bán quân sự, hoạt động dưới danh nghĩa Nhà nước để thu lượm hải vật và thực thi chủ quyền - đã cung cấp bằng chứng xác thực về việc nhà nước VN đã xác lập, quản lý và thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa một cách liên tục và hòa bình từ trước đó.

Những tư liệu này chứng minh rằng: Chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa đã thuộc về Đại Việt từ trước thời Lê Quý Đôn. Các hoạt động thực thi chủ quyền là hoạt động quản lý nhà nước, diễn ra hòa bình và liên tục. Các quốc gia láng giềng, trong đó có nhà Thanh (Trung Quốc) cũng đã công nhận và tôn trọng chủ quyền của Đại Việt đối với hai quần đảo này. (còn tiếp)

Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao