Phạm Tiến Duật, 'cánh đại bàng' của thi ca Trường Sơn

Thơ Phạm Tiến Duật mở ra góc nhìn hiện đại, sống động về cuộc kháng chiến với những bài thơ như: Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Lửa đèn, Tiểu đội xe không kính… Thơ của ông những năm tháng ấy có mặt trong hành trang tinh thần của người lính ra trận; được phổ nhạc và hát khắp các chiến trường.

Phạm Tiến Duật, 'cánh đại bàng' của thi ca Trường Sơn- Ảnh 1.

1a phạm tiến duật.jpg

Thơ Phạm Tiến Duật (nhất là viết về chiến tranh) có giọng điệu riêng, không thể lẫn với thơ người khác. Ông có công mở đầu cho trường phái thơ chiến tranh hằn in dấu ấn nhọc nhằn nhưng hồn nhiên của người lính trận mạc thủa ấy. Sự đóng góp của Phạm Tiến Duật cho nền thơ kháng chiến được ghi nhận, kể cả về mặt đổi mới thi pháp, nội dung phản ánh.

Nếu nói về sự tìm tòi, đổi mới trong thơ VN thời chiến tranh và cả thời hậu chiến, chắc chắn Phạm Tiến Duật là gương mặt nổi trội. Thậm chí, có nhà phê bình đánh giá thời ấy một mình Phạm Tiến Duật làm nên trường phái thơ chiến tranh mà bài Lửa đèn là đỉnh cao của "phong cách Phạm Tiến Duật". Tôi muốn dùng hình ảnh "con đại bàng của thi ca Trường Sơn" để nói về nhà thơ Phạm Tiến Duật. Những bài thơ ông viết trên đường Hồ Chí Minh giữa những đợt bom B52 rải thảm, đã vượt bay lên trên bầu trời thi ca yêu nước, gây xúc động hàng triệu trái tim thanh niên ra trận, như cánh chim đại bàng kiêu hãnh dự báo ngày toàn thắng đến rất gần.

Ông sống và viết ở Trường Sơn 8 năm, trong tổng số 14 năm quân ngũ. Sau khi được trao giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ (1969 - 1970), ông về làm biên tập thơ rồi làm Phó ban đối ngoại Hội Nhà văn VN, Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn văn nghệ VN. Các tập thơ đã xuất bản: Vầng trăng và quầng lửa (1970), Thơ một chặng đường (1971), Ở hai đầu núi (1981), Nhóm lửa (1996), Tiếng bom và tiếng chuông chùa (1997)... Ông được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật 2001, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật 2012.

Đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong thơ Phạm Tiến Duật thời chống Mỹ là giọng thơ trẻ trung, hóm hỉnh, đầy sức sống. Ngay từ bài thơ Tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật đã phá vỡ kiểu thơ trữ tình cổ điển, mang vào thơ giọng điệu đời thường, ngang tàng, gần với khẩu ngữ và lời nói lính chiến."Không có kính không phải vì xe không có kính/ Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi/ Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng/ Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng/ Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim/ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim/ Như sa, như ùa vào buồng lái…".

Những câu thơ tưởng như trần thuật, nhưng ẩn chứa sự kiêu hãnh, tinh thần thép, thể hiện phẩm chất người lính Trường Sơn: vượt lên gian khổ, giữ trọn khí phách và niềm tin. Những bài học về sáng tạo thi ca từ Phạm Tiến Duật cho thấy thơ không chỉ để ngợi ca mà để sống cùng thời đại. Ông đã đưa thơ từ bục cao xuống chiến hào, làm thơ trở thành tiếng nói sống động của người lính, của một thế hệ dấn thân.

THƠ BẮT NGUỒN TỪ CUỘC SỐNG

Với Phạm Tiến Duật, ngôn ngữ thơ phải bắt nguồn từ nhịp đập cuộc sống, thơ không cầu kỳ mỹ từ, mà chắt lọc từ chính lời ăn tiếng nói của người lính, người dân, nên luôn sống động và thấm. Ông dân chủ hóa chất sử thi, làm cho cái lớn lao được thể hiện qua cái giản dị, gần gũi mà vẫn hào hùng và điều quan trọng là người làm thơ phải dám tìm tiếng nói riêng.

Giữa thời đại của những bài thơ hô hào, ông chọn lối thơ kể chuyện, đối thoại, mở ra lối đi mới cho thơ chiến tranh. Thơ Phạm Tiến Duật không chỉ ghi chép chiến tranh, mà chuyển hóa nó thành nghệ thuật sống, yêu và hy vọng giữa bão lửa. Ông cho biết câu thơ trong bài Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây: "Anh lên xe trời đổ cơn mưa/ Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ" là ghi chép trong buồng lái của một chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn, mãi mấy tháng sau bài thơ có câu thơ kia mới được sáng tác. Còn câu thơ: "Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng/ Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay" cũng là câu ghi chép trong sổ tay khi đi đường.

Có một bài thơ rất đáng chú ý là Vòng trắng: "Bom nổ trên trời hiện lên những vòng đen/ Nhưng mặt đất lại sinh bao vòng trắng/ Tôi với bạn tôi đi trong im lặng/ Cái im lặng bình thường đêm sau chiến tranh/ Cái mất mát nào lớn bằng cái chết/ Khăn tang vòng tròn như một số không…". Cuối năm 1973, Tư lệnh bộ đội Trường Sơn Đồng Sĩ Nguyên trực tiếp giao nhiệm vụ cho Phạm Tiến Duật ra Bắc làm công tác sưu tầm tài liệu chuẩn bị soạn thảo Văn bia Trường Sơn. Vì vậy, ông đã tận mắt chứng kiến hậu quả tàn khốc của chiến tranh, sau đó sáng tác bài Viết về số 0, thường gọi là Vòng trắng, đăng trên tạp chí Thanh niên như một nén nhang viếng những người dân tử nạn vì bom B52 dội xuống phố Khâm Thiên, Hà Nội. Số báo đăng vào tháng 1.1974.

Tuy nhiên, mấy tháng sau, một tạp chí khác đã phê phán gay gắt: "Giữa lúc cần nói to lên niềm sung sướng tự hào về cái được vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thì nhà thơ lại chỉ thấy cái mất, chỉ thấy tang tóc đau thương và than thở...". Có lẽ vì vậy mà bài thơ này không được in trong bất kỳ tập thơ nào của Phạm Tiến Duật sau này. Cho đến trước khi ông qua đời, nhà văn Nguyễn Khắc Phục mới đưa vào Tuyển tập Phạm Tiến Duật bài Viết về số 0 do nhà thơ Trần Nhương sưu tầm, giới thiệu. Tuyển tập Phạm Tiến Duật in xong chưa đầy 20 ngày trước khi ông qua đời.

Phạm Tiến Duật để lại dấu ấn lớn trong nền thơ ca hiện đại VN. Ông là người đưa đời sống thật của người lính Trường Sơn vào thơ một cách tự nhiên, sâu sắc và sống động, làm cho thơ ca chiến tranh không chỉ cao cả mà còn rất người, rất đời. "Con đại bàng" của thơ ca Trường Sơn đã bay xuyên qua lửa đạn, mang theo tiếng thơ, mang cả gió ngàn, bụi đường, tiếng cười và cả những giấc mơ lặng lẽ, để lại cho đời một thời thơ rực rỡ không thể quên. (còn tiếp)

Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao