Tâm (心) là ký tự xuất hiện trong Giáp cốt văn thời nhà Thương, cách viết gốc gần giống với biểu tượng hình trái tim ngày nay. Song, trên thực tế, tâm có nhiều tự dạng (14 tự dạng Kim văn, 17 tự dạng trong Lục thư và 1 tự dạng trong Thuyết văn…). Chữ tâm (心) hiện nay là cách viết từ Khải thư.
Nghĩa gốc của tâm (心) là trái tim (Tố vấn. Nuy luận). Người xưa tin rằng tâm biểu thị cho suy nghĩ và cảm xúc: Tâm chi quan tắc tư (Tâm là để suy nghĩ) - Mạnh Tử. Cáo Tử (thượng).
Tâm còn là tên chòm sao trong Nhị thập bát tú, gọi là "tâm tú" hay sao Minh Đường (Sử kí. Thiên quan thư). Đến thời nhà Đường, tâm có nghĩa là phần chính giữa (Tì bà hành của Bạch Cư Dị).
Trong tiếng Trung cổ, tâm biểu thị cho tính cách hay khí chất (Chu Dịch. Phục Quái); hoặc dùng để chỉ những chiếc gai nhọn, nhị hoa hay đầu nụ trên cây... (Thi Kinh. Bắc phong. Khải phong).
Trong văn học, tâm là suy nghĩ, lập kế hoạch, tính toán (Lã Thị Xuân Thu. Tinh dụ) hoặc là sự quan tâm (Tự cố thái úy Kiều Huyền văn của Tào Tháo).
Trong triết học cổ đại, "tâm là nguồn gốc của trời đất" (thiên địa dĩ bản vi tâm giả dã) - Kinh Dịch - Phục Quái; là ý thức chủ quan của con người, trái nghĩa với vật (物), một khái niệm chỉ loài vật, đồ vật, sự vật...
Các nhà triết học duy tâm tin rằng tâm là bản thể của thế giới. Trong Tạp thuyết của Lục Cửu Uyên đời Tống có câu: "Vũ trụ tiện thị ngô tâm, ngô tâm tiện thị vũ trụ" (vũ trụ là trái tim tôi, trái tim tôi là vũ trụ). Trong chương Lễ khí của Kinh Lễ, tâm được cho là gốc của khí; còn trong Tuân Tử. Giải thế thiên: "Tâm là chủ của thân, chủ của tinh thần" (tâm giả, hình chi quân dã, nhi thần minh chi chủ dã).
Có những từ Hán Việt ngày nay ít phổ biến, song nếu dùng thì giúp vốn từ của chúng ta phong phú hơn, ví dụ: tâm tang (tang để trong tâm, không mặc đồ tang); tâm truyền (truyền thụ bằng tinh thần); tâm trường (lòng dạ); tâm tích (việc làm do tâm phát ra, còn để dấu vết cho người ta biết); tiêm tâm (lòng sâu sắc); thật tâm (trái tim chân thành); nhị tâm (thiếu chú ý; nửa vời); nghi tâm (nghi ngại); vọng tâm (cái tâm nghĩ ngợi lan man sằng bậy); chân tâm (cái tâm ban đầu sáng suốt)…
Có những từ "thấy vậy mà không phải vậy": tâm khúc (心曲) không phải là "khúc nhạc lòng", mà là "sự sâu thẳm trong tim"; tiểu tâm (小 心) thường được hiểu là "bụng dạ xấu xa, nhỏ mọn", song nghĩa gốc lại là "chú ý, cẩn thận, kỹ càng, chín chắn".
Đôi khi là từ 2 nghĩa: tâm hương (心 香) là "nén hương lòng" hoặc "trái tim ngoan đạo"; tâm ngẩm (Nôm: 心儼) là "lầm lì, ít nói" hoặc "nham hiểm, mưu mô" (Tâm ngẩm mà đánh chết voi, tục ngữ); Ngoài thơn thớt miệng, trong tâm ngẩm lòng (Nhị độ mai diễn ca).
Cuối cùng, một số người Việt thích đặt tên liên quan đến chữ tâm, ví dụ: Mỹ Tâm (tấm lòng đẹp); Đan Tâm (tấm lòng son); Xuân Tâm (tấm lòng phơi phới trước cảnh vật mùa xuân).
Trong Từ điển tên trên mạng, Mai Tâm nghĩa là "người có trái tim trong sáng, lương thiện, luôn mang lại may mắn và hạnh phúc cho mọi người", song nghĩa gốc của mai tâm (梅 心) lại là "nụ hoa mơ", xuất phát từ bài thơ cùng tên của Nguyên Chẩn đời nhà Đường.