Đường hoàng hay đàng hoàng ?

Đường (堂) là ký tự xuất hiện lần đầu bằng chữ Kim văn thời Tây Chu, ban đầu có nghĩa là một nền đất vuông do con người xây dựng hoặc nền móng của một ngôi nhà (Thượng thư. Đại cáo). Đường còn chỉ tiền sảnh của cung điện, nơi vua quản lý (Thi kinh. Đường phong. Tất suất) hoặc ngôi nhà dùng cho những hoạt động tập thể; hay là nơi triều đình tổ chức các nghi lễ, làm việc hoặc xử án (Luận hành. Vật thế của Vương Sung thời nhà Hán).

Ngoài ra, từ này còn là tiếng tôn xưng mẹ của người khác, thí dụ như lệnh đường (mẹ của ông), tôn đường (mẹ của ngài) hoặc dùng để gọi tên cửa hàng hay chỉ quan hệ họ hàng, cùng một gia tộc chứ không phải là họ hàng trực hệ, chẳng hạn như đồng đường huynh đệ hay đường huynh đệ (anh em chú bác), tụng đường (anh em cùng một cụ)…

Hoàng (皇) là ký tự xuất hiện lần đầu bằng chữ giáp cốt thời nhà Thương. Hình dạng cổ xưa của hoàng giống như ngọn lửa của cây đuốc. Có lẽ do người xưa thờ lửa, nên "hoàng" mang ý nghĩa là cao quý, hoặc chỉ sự trang nghiêm và vĩ đại. Trong sách cổ, "hoàng" còn là từ nói về thần linh, tổ tiên, đặc biệt là chỉ các hoàng đế thời xưa.

Bên cạnh đó, hoàng còn có nghĩa là to lớn, hoàng tráng (Thi Kinh. Đại Nhã. Hoàng hĩ); rực rỡ, tráng lệ (Thi Kinh. Tiểu Nhã. Thái khỉ); đẹp (Thi Kinh. Chu tụng. Thần công) và nhiều nghĩa khác.

Đường hoàng (堂皇), còn viết là đàng hoàng, do chữ đường (堂) có thiết âm là "đồng lang" (Khang Hi tự điển) và "đồ lang" (Thuyết Văn Giải Tự). Cả hai thiết âm này đều cho âm Hán Việt là "đàng". Tuy nhiên, do Khang Hi tự điển chú âm "đồng lang" là "đường" nên hiện nay có hai cách viết kể trên.

Từ đường hoàng (堂皇) có thể khởi nguồn vào thời nhà Hán. Ban đầu từ này dùng để chỉ một cung điện lớn (Tây kinh tạp kí, quyển 3), nghĩa này vẫn được sử dụng trong đời nhà Đường. Vào thời nhà Tống, đường hoàng là từ dùng để mô tả sự hùng vĩ, tráng lệ của kiến trúc (Cương đô dạ của Ngải Thanh) hoặc dùng trong văn phong tao nhã, thí dụ như "phú lệ đường hoàng", nghĩa là nguy nga, tráng lệ - một thành ngữ có nguồn gốc từ quyển Nhi nữ anh hùng truyện của Văn Khang thời nhà Thanh hay "đường hoàng nhị nghi" - một cụm từ diễn tả sự uy nghi và đường bệ.

Vào thời Minh Thanh, người ta còn dùng từ đường hoàng để ca ngợi vẻ đẹp của kiến trúc, sự tao nhã của đồ vật hoặc nơi các quan lại làm việc (Hán thư. Hồ Kiến truyện). Từ này còn diễn tả sự cao ngạo (Yên chi huyết đàn từ của Khấp Hồng thời nhà Thanh) hoặc những lời nói và hành động trang trọng bề ngoài nhưng thực chất giả dối bên trong (Quan trường hiện hình kí thời nhà Thanh).

Nhìn chung, vào thời xưa, nước ta sử dụng từ đường hoàng (堂皇) theo các nghĩa trong Hán ngữ kể trên. Tuy nhiên, trễ nhất cũng từ thế kỷ 19, hai từ đường hoàngđàng hoàng đã biến nghĩa theo cách hiểu của người Việt. Đường-hoàng được hiểu là "ngay-thẳng, không giấu-giếm", thí dụ như người đường-hoàng, cử-chỉ đường-hoàng (Việt-Nam tự-điển (1970), quyển thượng, tr.507). Đây cũng là ý trong Từ điển tiếng Việt (1988) do Hoàng phê chủ biên, ngoài ra ở trang 305, từ điển này còn giải thích đàng hoàng là đầy đủ về vật chất (nhà cửa đàng hoàng) hoặc có tư cách đáng được coi trọng (ăn nói đàng hoàng)…


Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao