Cửa Cu Đê - Sơn Thủy hữu tình

Sách Đại Nam Nhất thống chí (NXB Thuận Hóa, 1992) do Quốc sử quán Triều Nguyễn biên soạn viết về cửa Cu Đê như sau: "Tấn biển Cu Đê cách H.Hòa Vang 27 dặm về phía bắc, tức chỗ cửa sông Cu Đê, cửa lạch rộng 25 trượng, thủy triều lên sâu 4 thước 5 tấc, thủy triều xuống sâu 3 thước. Đầu đời Gia Long đặt một viên thủ ngữ và thủ dân để tuần phòng ngoài biển, xét hỏi những người đi lại".

Sông Cu Đê được hình thành từ hợp lưu hai con sông tên là sông Bắc và sông Nam, tổng chiều dài 38 km, diện tích lưu vực khoảng 426 km².

Cửa Cu Đê - Sơn Thủy hữu tình- Ảnh 1.

Cửa Cu Đê

Ảnh: Hoàng Xuân Sơn

Sông Bắc bắt nguồn từ dãy Bạch Mã nối liền giữa vùng núi phía tây TP.Đà Nẵng với TP.Huế, chảy theo hướng Tây Đông trên địa bàn xã Hòa Bắc, H.Hòa Vang. Sông Nam bắt nguồn từ vùng rừng núi H.Đông Giang (Quảng Nam), chảy qua nhiều khu rừng rậm, rồi hợp lưu với sông Bắc tại vị trí cầu Sập, tạo nên ngã ba sông ở vũng Bọt. Từ đây sông Cu Đê chảy theo hướng Tây Đông, qua các xã Hòa Bắc, Hòa Liên thuộc H.Hòa Vang rồi chảy về Q.Liên Chiểu, đi qua ranh giới giữa hai phường Hòa Hiệp Bắc và Hòa Hiệp Nam để đổ nước ra vịnh Đà Nẵng tại cửa Cu Đê. Khi chảy qua xã Hòa Liên, dòng Cu Đê mang tên là sông Trường Định, do người dân gọi theo tên thôn Trường Định nằm ở ven sông. Thôn Trường Định một bên là núi, một bên là sông, trước khi bắt cầu Trường Định, có phần cách ly với bên ngoài nên thường được ví như ốc đảo.

Đất Trường Định là nơi ngày xưa chúa Nguyễn từng đóng quân nên còn nhiều dấu vết của hành dinh Bến Giá. Ngày nay, thỉnh thoảng người dân địa phương còn tìm thấy những hiện vật có niên đại thời chúa Nguyễn như kiếm cổ, đồ sứ cổ... Tên gọi một số địa điểm ở xã Hòa Liên (Vườn Đồn, Vườn Lẫm…) cho thấy dấu vết doanh trại quân đội một thời.

Sông Cu Đê lại mang tên Thủy Tú khi đi qua làng Thủy Tú (cũ). Ở đây gần biển, nên dòng sông chảy chậm, lòng sông mở rộng, cảnh trí nên thơ. Theo nhiều nhà nghiên cứu Đà Nẵng, Cu Đê chính là tên cổ của làng Thủy Tú, và con sông có tên theo tên làng cổ từ thời ấy.

Điều lý thú là nếu như phần lớn sông ngòi ở khu vực phía nam Đà Nẵng thông dòng với nhau rồi tập trung rót nước qua cửa sông Hàn theo hướng Nam Bắc, thì mạng lưới các con sông ở địa bàn phía bắc thành phố lại theo dòng Cu Đê đổ nước ra vịnh Đà Nẵng theo hướng Tây Đông.

Cửa Cu Đê - Sơn Thủy hữu tình- Ảnh 2.

Vịnh Đà Nẵng, nơi sông Cu Đê đổ ra biển

Ảnh: Hoàng Xuân Sơn

Thời đó, có hai con đường bộ vượt qua núi Hải Vân (Hải Vân sơn) là hạ đạo ở phía đông và thượng đạo ở phía tây. Qua hết núi Hải Vân, dù bằng hạ đạo hay thượng đạo đều phải tiếp tục vượt sông Cu Đê mới vào được phía nam. Vì vậy, nơi đây chính là yết hầu trên đường đi vào đất Chiêm Thành và ngược lại, từ Chiêm Thành sang đất Đại Việt.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư thuật chuyện vua Trần Anh Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành năm 1312, hai lần nhắc đến Câu Chiêm (Cu Đê), nơi một lực lượng quân đội hùng hậu đã tụ hội và ngự dinh của vua Trần Anh Tông đóng ở đó, đến tháng 5.1313 thì bắt được vua Chiêm mới ban sư trở về.

Cũng sách ấy chép về sự kiện năm Hồng Đức thứ 2 (Tân Mão 1471) như sau: "Ngày mồng 6, viên Chỉ Huy Cang bắt Bồng Nga Sa là viên lại giữ của quan Cu Đê nước Chiêm đem nộp (Đại Việt Sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên, NXB Văn hóa thông tin, 2003, tập 2, trang 698). Trận đánh bắt sống Bồng Nga Sa được xem như trận chiến thắng mở màn của đoàn quân thân chinh của vua Lê Thánh Tông trên đất Chiêm Thành, sau đó tiến xuống Chiêm Động, Cổ Lũy Động, Chà Bàn (nay là địa bàn các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và TP.Đà Nẵng).

Dưới thời chúa Nguyễn, năm 1635, chúa Nguyễn Phúc Nguyên mất, Nguyễn Phúc Lan lên kế vị. Nguyễn Phúc Anh lúc này đang là Tổng trấn Quảng Nam muốn tạo phản bèn cấu kết với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, đắp lũy, lập một phòng tuyến dọc sông Cu Đê để ngăn quân đội từ Phú Xuân. Nhờ sự nội ứng của viên Ký lục họ Phạm, quân Nguyễn Phúc Lan mới hạ được lũy Cu Đê của Nguyễn Phúc Anh, bắt kẻ tạo phản đem giết. Xứ Đàng Trong được giữ vững.

Năm 1775, khi quân Trịnh tấn công Phú Xuân, chúa Nguyễn Phúc Thuần phải chạy vào Quảng Nam và chọn khu vực Cu Đê làm chiến lũy để Đông cung Nguyễn Phúc Dương ở lại chống giữ quân Trịnh, còn mình thì cùng hoàng tôn Nguyễn Phúc Ánh chạy vào Gia Định. Khi quân Hoàng Ngũ Phúc tấn công vào đây, Hoàng tôn Dương phải bỏ chạy.

Trong trận chiến chống Pháp, vào ngày 16.1.1860, quân của tướng Nguyễn Thao từ tấn Cu Đê hợp cùng quân của Trần Đình Túc (đồn Hóa Ổ) và Thống chế Nguyễn Trọng Thao (đồn Hải Vân) hai mặt tấn công quân Pháp, khai thông con đường từ chiến trường Đà Nẵng về kinh đô Huế.

Làng cổ Nam Ô và cửa Cu Đê đã xuất hiện trong bộ phim ngắn (dung lượng gần một phút) đầu tiên thu hình tại VN với tiêu đề Le Village de Nam O (Làng Nam Ô) do tác giả Gabriel Veyre của Hãng Lumière (Pháp) thực hiện năm 1896 và chiếu ở Pháp vào năm 1900.

Khung cảnh cửa Cu Đê là một vùng sơn thủy hữu tình, nơi con sông có tên gọi mang dấu ấn người Chăm thuở xa xưa đổ vào vịnh Đà Nẵng trước khi về với biển. Văn hóa của cư dân trại Câu Chiêm - Câu Đê xưa vẫn còn thấp thoáng, mang hương sắc riêng một vùng đất đã đi qua bao biến thiên lịch sử. Những hậu duệ của người Chiêm Thành thuở trước đã sống cùng người Việt, hòa huyết qua nhiều thế hệ sống chung trên đất nước VN đa văn hóa, đa dân tộc, gắn bó với mảnh đất giàu truyền thống và thiên nhiên xinh đẹp bên vịnh Đà Nẵng. (còn tiếp) 

Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao