Làm quan chăm dân
Ghi chép về Lê Quý Đôn, hầu hết các sách đều đặc biệt khen khả năng ghi nhớ của ông thực đáng nể, như Thoái thực ký văn có chép "xem sách rất nhanh, mười hàng một lần, đã thuộc rồi thì suốt đời không quên, mà tay chưa từng rời sách". Sách vở ghi về tài đọc nhanh nhớ lâu của Lê Quý Đôn đã thành nhiều câu chuyện mang tính giai thoại. Chẳng hạn như trong Lịch đại danh hiền phổ ghi việc có lần ông đến nhà xã trưởng, thấy cuốn sổ chép việc thu thóc của các hộ trong làng, lấy lên xem qua. Sau này, nhà xã trưởng bị hỏa hoạn, cuốn sổ kia bị cháy, xã trưởng không nhớ được việc thu thóc của các hộ nên lấy làm lo, "chợt gặp ông nói đến chuyện ấy, ông nói: "Hôm ấy tôi đã xem qua, và nhớ tất cả ông đừng lo, lấy sổ đây tôi đọc cho mà biên". Sau người xã trưởng đem sổ ấy đi thu, những người còn thiếu đều nộp hết, không có cãi cọ lôi thôi gì, tính gộp cả lại thì không sai tí nào".

Tượng Lê Quý Đôn trong khuôn viên Trường THPT Lê Quý Đôn, P.Xuân Hòa, TP.HCM
ẢNH: TRẦN ĐÌNH BA
Trí nhớ siêu việt là thế, nhưng không vì vậy mà Lê Quý Đôn tự phụ, ngược lại học tập không ngừng, có chí cầu tiến. Sử sách ghi lại vị Bảng nhãn đất Diên Hà này rất siêng đọc sách. Khi trả lời cho câu hỏi kiến thức từ đâu mà có, bản thân Lê Quý Đôn cho rằng tài năng của con người do kiến thức mà ra, "đọc sách nhiều có thể tìm ra mối của nó [chỉ kiến thức]". Ông là tấm gương sáng cho tinh thần tự học và trước thuật. Nhờ đó, sự trui rèn nên kết quả tốt đẹp khi hoạn lộ của ông có phần sáng lạn, như Phong tục sử đúc kết khi ghi chép về ông, "ông nắm chính quyền lâu ngày, vâng mệnh đi sứ, đi tuần biên giới, có rất nhiều chính tích".
Với tài năng của mình, làm quan biết thương, chăm dân nên ông được chúa Trịnh tin dùng, có những đề xuất, ý kiến được chúa nghe và cho thi hành; như năm Tân Mão (1771), ông trình lên chúa 4 điều liên quan đến mạo nhận sắc chỉ của cống sinh, đến tệ cầu cạnh trong lệ bảo cử, đến việc khám xét theo kỳ đất công các bãi bồi, đến việc tra xét kỹ lưỡng việc tha thuế tạp dịch cho dân. Các điều ấy đều được chúa nghe theo cả.
Lại như năm Giáp Ngọ (1774) dân Nghệ An gặp nạn đói, Lê Quý Đôn trước thảm cảnh đó đã kiến nghị với chúa "lưu những điền sản của phủ hộ nộp vào để lại ở trấn để phát chẩn, bãi thuế tuần trong hạt; nghiêm việc phòng giữ mặt biển. Hoãn việc truy bắt lính trốn; hoãn việc xét xử kiện tụng; nghiêm trách Hiến ty phải xét kỹ các điều đau khổ của dân, tâu lên để cứu cấp cho dân", Đại Việt sử ký tục biên chép. Năm Đinh Dậu (1777), ông xin chúa rút bớt quan lại ở các huyện, châu thuộc trấn Thái Nguyên tập trung về một nơi để giảm bớt sự phiền nhiễu cho dân, chúa cho thi hành theo đề xuất ấy...
Ngôn quan cương trực của Ngự sử đài
Từ đường khoa cử, Lê Quý Đôn bước chân vào chốn quan trường, ông kinh qua nhiều chức vụ khác nhau. Có lúc vị Bảng nhãn này làm học sĩ ở Thư các, có lúc đi sứ Trung Hoa năm Kỷ Mão (1759), có lúc làm Tư nghiệp trông coi giáo dục năm Đinh Hợi (1767)…

Sách Lịch đại danh hiền phổ, bản dịch in năm 1962 có ghi chép về Lê Quý Đôn
ẢNH: TRẦN ĐÌNH BA
Qua nhiều vị trí, chức vụ, một trong những điểm son của Lê Quý Đôn được sách vở chép lại, là khi ông giữ chức ngôn quan ở Ngự sử đài (hay ty Phong hiến), nơi giữ nhiệm vụ đàn hặc, can gián, chỉ lỗi việc sai trái từ vua tới quan lại, vì thế cần những quan thanh liêm, cứng cỏi, dám nói. Theo Đại Việt sử ký tục biên, năm Kỷ Sửu (1769), chúa Trịnh cho ông giữ chức Thiêm đô ngự sử. Năm sau ông được thăng làm Phó đô ngự sử. Trong năm này, vẫn sách trên cho hay: "Tháng 6, Đài phó Lê Quý Đôn vì nhiều lần đem số tiền của người bị kiện đút lót nộp vào quỹ công, nên được đặc cách thăng lên Hữu thị lang bộ Hộ".
Tiếp sang năm Tân Mão (1771), chúa sai Lê Quý Đôn, Đoàn Nguyễn Thục đi điều tra nhân khẩu, binh lực xứ Thanh Hoa (Thanh Hóa). Sau khi về, các viên quan này xin với chúa Trịnh Sâm tha thuế thân cho dân, lại xin hoãn cho dân chậm đóng các thuế thổ sản, thủy sản, ruộng công.
Vẫn trong phạm vi trách nhiệm của một ngôn quan, vào năm Nhâm Thìn (1772), Lê Quý Đôn theo lệnh chúa lên Lạng Sơn để điều tra việc dân xứ Lạng bị quan lại địa phương quấy nhiễu về việc chạy trạm. Sau khi Lê Quý Đôn điều tra rõ thực hư đã "dò hỏi tình hình quan lại liêm hay tham, dân gian đau khổ thế nào đem về tâu. Đốc đồng Lạng Sơn là Lê Doãn Thân vì hà khắc quấy nhiễu, bị miễn chức". Với những chính tích ấy, năm Nhâm Thìn (1772), chúa cho Lê Quý Đôn làm Ngự sử, rồi lại cho Thự tế tửu Quốc Tử Giám. Đến năm Bính Thân (1776), ông được thăng làm Đô Ngự sử, cho thấy sự tín nhiệm của chúa Trịnh với ông ở vị trí của ngôn quan cương trực, ngay thẳng. (còn tiếp)