Từ thế kỷ 11, vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) đã cho dựng ở mỗi cung đường quan lộ cách nhau từ 15 - 20 km một nhà trạm để vừa làm nơi nghỉ chân của khách bộ hành lỡ bước, vừa làm nơi trung chuyển công văn giấy tờ và thay đổi ngựa trạm hay lính trạm.

Hình ảnh người phu trạm ngày xưa
ẢNH: NGUỒN BAVH SỐ 1 NĂM 1944
Thời quân chủ, thư được cho vào ống tre, buộc chặt hai đầu, gắn nhựa thông hay sáp, có đóng dấu lên trên để vừa bảo mật, vừa tránh rơi rớt dọc đường. Trên ống công văn, người ta ghi mức độ khẩn và địa điểm nơi nhận. Hình ảnh người phu trạm và tiếng lục lạc vang lên từ tay anh ta có đủ uy lực buộc cư dân những nơi mà họ đi qua phải tạm dừng bước, nhường tránh đường đi.
Trong chuyến viếng thăm VN năm 1819, thời vua Gia Long, thuyền trưởng Pháp Rey đã lưu ý về hình ảnh đặc biệt này: "Ngay khi người ta nghe tiếng nhạc ngựa vang lên báo hiệu sự xuất hiện của sứ giả triều đình hoặc trông thấy lá cờ nhỏ bay phấp phới, các xe bò và xe bộ hành nép lại, con đường được thu dọn tất cả những gì cản trở bước tiến của người phu trạm, những người chở đò chuẩn bị đò để đưa qua sông và nếu đã rời bến sông, họ phải chèo cật lực, quay trở lại để rước người phu trạm…" (tác giả tạm dịch từ Bulletin des Amis du Vieux Hue, 1920, tr.2).
Đến đầu thập niên 1860, khi chưa hoàn thành kế hoạch đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ, thực dân Pháp đã nghĩ đến công tác bưu chính và điện báo. Ngày 11.4.1860, đại tá hải quân Dariès cho thiết lập văn phòng bưu chính đầu tiên của Pháp tại Nam kỳ với chức năng chủ yếu là chuyển giao công văn giữa các tổ chức hành chánh và quân sự của Pháp. Về sau, do nhu cầu liên lạc giữa các đạo quân triển khai trên cả một vùng rộng lớn gồm 3 tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, họ ưu tiên thiết lập đường dây điện báo Sài Gòn - Biên Hòa dài 28 km, khánh thành ngày 27.3.1862.
Trước năm 1863, công tác bưu chính còn ở giai đoạn sơ khai. Từ tháng 7.1862, thực dân Pháp đặt các hòm thư (postes aux lettres) tại tỉnh Biên Hòa và sau đó, triển khai ở nhiều địa phương khác như Gia Định, Bà Rịa, Mỹ Tho, Gò Công, Tây Ninh, Thuận Kiều (Tong Keou) và Trảng Bàng.
Phải đợi đến đầu năm 1863, công tác bưu chính mới thực sự mang một ý nghĩa tích cực trong việc phục vụ lợi ích công cộng - dù cho điều này cũng cần được hiểu theo một nghĩa hạn hẹp là lợi ích của người Pháp và một thiểu số công chức bản xứ làm việc cho Pháp. Nghị định số 15 ngày 13.1.1863 của Phó đô đốc Bonard, Thống đốc Nam kỳ, quy định những nét căn bản đầu tiên cho việc gửi và nhận thư từ trong và ngoài địa phận Sài Gòn.

Tòa nhà Bưu điện được người Pháp xây dựng (từ năm 1886 - 1891) còn có tên gọi là Sở Dây thép Sài Gòn để thiết lập hệ thống thông tin liên lạc tại Sài Gòn
ẢNH: QUỲNH TRÂN
Theo nội dung của văn kiện trên, Sở Bưu chính Sài Gòn hoạt động theo phương thức tổ chức của cơ quan bưu chính chính quốc (Pháp). Một người bưu tá duy nhất có nhiệm vụ đi phát thư tận nhà cư dân, mỗi ngày 2 bận, bận thứ nhất từ 9 - 10 giờ sáng, bận thứ hai từ 4 - 5 giờ chiều. Mỗi khi tàu chở thư cập cảng Sài Gòn, một viên bưu tá trên tàu có nhiệm vụ đưa toàn bộ thư từ lên bờ và giao ngay cho Sở Bưu chính. Các thường dân có thể đến nhận thư tại Sở Bưu chính hay chờ được phát tận nhà. Một số báo cáo cùng ngày 13.1.1863 của G. Goubaux, Giám đốc bưu chính lâm thời thông báo giờ mở cửa của sở, sáng từ 7 - 9 giờ, chiều từ 3 - 5 giờ, trừ chủ nhật và ngày lễ.
Những văn kiện cơ bản này đã dự liệu việc bán tem thư tại cơ quan bưu chính, nhưng phải đến ngày 30.5.1863 công chúng mới được chính thức thông báo về sự ra đời của những con tem thư đầu tiên tại VN.
Song song với Sở Bưu chính Sài Gòn, thực dân Pháp cũng cho thiết lập cơ quan bưu chính ở 3 tỉnh đã chiếm đóng (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường). Tại những nơi này, các viên chỉ huy quân sự địa phương phối hợp với Giám đốc Sở Bưu chính Sài Gòn, đề cử mỗi nơi một viên chức phân phối thư (distributeur) với sự chuẩn y của viên Thống đốc Nam kỳ.
Trong thời gian này, tổ chức trạm của triều Nguyễn tại Nam kỳ vẫn chưa bị thực dân Pháp bãi bỏ. Bằng văn kiện số 117 ngày 10.8.1866, Phó đô đốc De La Grandière, Thống đốc Nam kỳ, quy định các trạm tiếp tục công tác bưu chính trong những ngày lễ và chủ nhật (Công báo Nam kỳ thuộc Pháp - BOCF 1866, tr.123 - 124). Làm như vậy, Pháp giải quyết được lỗ hổng mà cơ quan bưu chính của họ tạo ra trong những ngày này. Tuy nhiên đến thập niên 1870, tổ chức trạm cũng bị bãi bỏ, khi nền bưu chính mới đã thực sự phát huy được tác dụng. Từ năm 1886 - 1891, tòa nhà Bưu điện được người Pháp xây dựng (còn có tên gọi là Sở Dây thép Sài Gòn) đã thiết lập hệ thống thông tin liên lạc tại Sài Gòn. (còn tiếp)