Hà Tiên thập cảnh: Cheo leo núi Đá Dựng

Đá Dựng khác Châu Nham

Ngoài tấm biển đá ghi "Di tích danh lam thắng cảnh núi Đá Dựng - Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích quốc gia" (Quyết định số 44/2007/QĐ-BVHTT ngày 3.8.2007) ở bên ngoài, trên đường lên núi hiện nay có thêm đàn cò và 4 chữ "Châu Nham lạc lộ" đắp trên vách núi. Tuy nhiên, lâu nay nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu cho rằng núi Đá Dựng không phải là Châu Nham, mà Châu Nham là tên một ngọn núi ở Bãi Ớt, thuộc xã Dương Hòa cũ (nay thuộc P.Tô Châu, An Giang).

Hà Tiên thập cảnh: Cheo leo núi Đá Dựng- Ảnh 1.

Đường lên núi Đá Dựng nhiều đoạn khúc khuỷu quanh co

Ảnh: Hoàng Phương

Sách Nam Kỳ lục tỉnh địa dư chí của Duy Minh Thị (1872), chép: "Châu Nham (tục danh là Bãi Ớt), cách hướng đông tỉnh lỵ 22 dặm. Chót núi chưn non, thẳng tới bãi biển, bùn cát chầm lớn, quanh theo tả hữu, ở trong đó có đá tinh quang. Ở dưới nhiều con hàu có làn chỉ đỏ. Hồi xưa truyền Mạc Cửu còn vi thời, trải đến nơi đó, có lượm được hột ngọc trai rất lớn. Cái báu nó vô giá".

Hà Tiên thập cảnh: Cheo leo núi Đá Dựng- Ảnh 2.

Khe đá hẹp, rêu phong trên đường lên núi

Ảnh: Hoàng Phương

Trong lần trò chuyện với PV Thanh Niên vào năm 2013, nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt (Hà Tiên) khẳng định sự nhầm lẫn khi gọi núi Đá Dựng là Châu Nham. Ông dẫn chứng bài Châu Nham lạc lộ năm 1736 của Mạc Thiên Tích, được Nguyễn Cư Trinh họa vần (Phạm Ngọc Khuê dịch): "Xanh trời không vết bể non pha/Ai đấy đàn sương đến điểm hoa/Trên sóng đua bơi, chài hết mẹo/Đầu thông chen đứng, vạc không nhà/Nước triều lên xuống buông đầy dẫy/ Le hạc vắn dài luống thiết tha…".

Hà Tiên thập cảnh: Cheo leo núi Đá Dựng- Ảnh 3.

Tấm biển đá ghi Di tích núi Đá Dựng

Ảnh: Hoàng Phương

"Bài thơ này làm nổi bật cảnh non cao biển rộng hòa lẫn vào nhau, nơi có sóng biển và nước triều lên xuống. Rõ ràng Châu Nham nằm sát bờ biển chớ không phải chỗ đồng bằng như núi Đá Dựng", ông Đạt nói.

Hà Tiên thập cảnh: Cheo leo núi Đá Dựng- Ảnh 4.

Đàn cò và 4 chữ Châu Nham lạc lộ trên vách núi

Ảnh: Hoàng Phương

Vì sao có sự nhầm lẫn? Theo nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt, nguyên nhân bắt đầu từ bài bút ký Chơi Châu Nham của Đông Hồ đăng trên Đông Pháp thời báo năm 1926 và sau đó được đăng lại trên Tạp chí Nam Phong tháng 9.1930. Khi đó, Đông Hồ viết: "Châu Nham lạc lộ tục gọi là núi Đá Dựng, là một cảnh trong Hà Tiên thập cảnh vịnh của Mạc Thiên Tích". Vì thời điểm đó tài liệu quốc ngữ còn hiếm nên bài của Đông Hồ được phổ biến rộng, không ai phản biện. Và sự nhầm lẫn này tiếp tục được củng cố khi Đông Hồ và Mộng Tuyết xuất bản tập sách nhỏ Hà Tiên thập cảnh, năm 1960, khẳng định núi Đá Dựng là Châu Nham lạc lộ.

Núi Đá Dựng xưa và nay

Một bài viết trên Báo Tân Văn (ngày 3.11.1934) mô tả từ Thạch Động vô Đá Dựng phải băng qua ruộng. Mùa khô thì dễ đi, mùa mưa rất lầy lội, có năm mùa nước nổi, ngập sâu phải dùng xuồng đi vào.

Hà Tiên thập cảnh: Cheo leo núi Đá Dựng- Ảnh 5.

Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt từng khẳng định: “Núi Đá Dựng không phải là Châu Nham lạc lộ”

Ảnh: Hoàng Phương

Đến cuối thập niên 1950 cũng chưa có đường cho xe đi. Bài Hà Tiên thắng cảnh đăng trên Tạp chí Phổ Thông (ngày 31.3.1959) tường thuật: "Du khách phải đi bộ chừng 2 cây số men theo bờ ruộng, qua xóm nhỏ chỉ có dăm ba cái nhà tranh. Đường lên các hang động khá cheo leo, phải bám vào dây leo mà đi để không bị trượt té. Trong hang nước chảy rỉ rả, ăn sâu vào lòng núi. Càng vào trong càng khó đi, chỗ rộng chỗ hẹp, người ta bắc thang qua mấy gộp đá. Lại có hang trên vách đá nổi lên 5 lằn như 5 sợi dây, lấy đá khỏ vào, nghe mỗi tiếng mỗi khác nên gọi là đàn đá".

Vòng quanh núi Đá Dựng có 14 hang động lớn nhỏ. Ngày nay, muốn đi qua hết các kỳ quan đó để lên đỉnh núi phải theo bảng chỉ dẫn băng qua những bậc thang đá uốn lượn với chiều dài hơn 3.000 m. Đường lên núi có nhiều khung cảnh rất đẹp, nhiều đoạn dốc đứng hoặc như đổ xuống vực, quanh co khúc khuỷu, vách đá rêu phong. Có nhiều đoạn đường quanh co lại rất hẹp, phải lách qua khe đá chỉ vừa đủ một người đi. Cổ thụ, dây leo bám đá chằng chịt.

Hà Tiên thập cảnh: Cheo leo núi Đá Dựng- Ảnh 6.

Hang Bồng Lai

Ảnh: Hoàng Phương

Hà Tiên thập cảnh: Cheo leo núi Đá Dựng- Ảnh 7.

Hang Trống ngực

Ảnh: Hoàng Phương

Hà Tiên thập cảnh: Cheo leo núi Đá Dựng- Ảnh 8.

Hang Cổng trời

Ảnh: Hoàng Phương

Hà Tiên thập cảnh: Cheo leo núi Đá Dựng- Ảnh 9.

Hang Thần Kim Quy

Ảnh: Hoàng Phương

Các hang động người xưa đặt tên theo hình thù của đá, như hang Thần Kim Quy với khối đá màu vàng hình con rùa ngẩng đầu, hang Bồng Lai có hình bàn tay Phật in trên vách đá, hang Sám Hối có một tảng đá to như hình nhà sư cúi đầu vào vách đá trầm tư. Hang Cổng Trời càng vào sâu càng hẹp, có cảm giác như đang đi xuống lòng đất âm u, nhưng thật ra hang đi dần lên cao và thông ra khoảng không đầy ánh sáng trời. Hang Dơi có những thạch nhũ như chiếc bình hồ lô và có nhiều dơi trú ngụ. Hang Khổ Qua thì có những thạch nhũ hình bầu dục như trái khổ qua mọc ra từ đá…

Trống Ngực là hang nằm cao nhất trong 14 hang động, ở độ cao 83 m so với chân núi. Hang sâu 12 m, rộng 6 m, bên phải có một vách đá cao có thạch nhũ sáng lấp lánh. Khi đi vào hang, đưa tay vỗ ngực thì vách hang dội lại thanh âm giống như tiếng trống... Hang này còn gọi là hang rồng vì có mảng đá giống hình rồng. Ngoài ra còn có hang Xã Lộc Kỳ có khoảng giếng trời thông lên trên với những phiến vân đá kỳ dị, cửa hang có đặt bệ thờ, bát nhang.

Sách Gia Định thành thông chí chép: "Núi Đá Dựng còn gọi là Bạch Tháp sơn, thế núi quanh co, cỏ cây xanh tốt, có nhà sư ở Quy Nhơn là Huỳnh Long đại hòa thượng dừng chân dựng chùa ở đây. Năm 1737 hòa thượng tịch, đồ đệ xây tháp 7 cấp giữ gìn xá lợi. Hằng năm cứ dịp 3 ngày rằm lớn và lễ Phật đản thì có con hạc đen đến chầu, con vượn xanh dâng trái, lưu luyến bịn rịn như có ý muốn tham thiền nghe pháp". (còn tiếp)

Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao