140 năm Phong trào Cần Vương (1885 - 2025): Quyết tử chiến đấu ở căn cứ Ba Đình

Ông Chánh tổng yêu nước

Đinh Công Tráng sinh năm Nhâm Dần (1842), tại làng Tràng Xá, nay là xã Thanh Lâm, tỉnh Ninh Bình. Khi Pháp đưa quân xâm chiếm Bắc kỳ lần thứ 2 (năm 1882), Đinh Công Tráng (khi đó đang là Chánh tổng) tình nguyện gia nhập đội quân của Hoàng Kế Viêm, rồi tham gia trận Cầu Giấy ngày 19.5.1883, đánh bại đội quân Pháp do Henri Rivière chỉ huy.

140 năm Phong trào Cần Vương (1885 - 2025): Quyết tử chiến đấu ở căn cứ Ba Đình- Ảnh 1.

Đinh Công Tráng

Ảnh: T.L

Hưởng ứng chiếu Cần Vương, tháng 2.1886, Đinh Công Tráng cùng với Trần Xuân Soạn (người từng tham gia chỉ huy binh sĩ triều đình tấn công tòa Khâm sứ Pháp và đồn Mang Cá trong sự kiện Kinh đô Huế), Phạm Bành (từng lãnh chức Án sát sứ Nghệ An) và một số văn thân, thổ hào yêu nước như Nguyễn Khế, Hà Văn Mao (người dân tộc Mường), Cầm Bá Thước (người dân tộc Thái), Hoàng Bật Đạt, Nguyễn Đôn Tiết, Lê Toại lập chiến khu kháng chiến ở ba làng Mậu Thịnh, Thượng Thọ và Mỹ Khê (nay thuộc xã Nga Liên, tỉnh Thanh Hóa). Mỗi làng có một ngôi đình, từ đình làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia, nên gọi là căn cứ Ba Đình.

Bao bọc xung quanh căn cứ Ba Đình là lũy tre dày đặc và một hệ thống hào rộng, rồi tiếp đến một lớp thành đất cao 3 m, chân rộng từ 8 - 10 m, mặt thành đủ rộng để đi lại được. Vào mùa mưa, căn cứ này trông như một hòn đảo nổi giữa cánh đồng nước mênh mông, tách biệt với các làng khác. Ngoài Ba Đình là căn cứ chính, còn có một số căn cứ hỗ trợ ở ngoại vi như Phi Lai, Quảng Hóa, Mã Cao... do Cao Điển, Trần Xuân Soạn, Hà Văn Mao đứng đầu.

Nghĩa quân Ba Đình có khoảng 300 người, bao gồm cả người Kinh, người Thái, người Mường. Họ tự trang bị các loại vũ khí thông thường như: súng hỏa mai, gươm, giáo, cung, nỏ. Đông đảo nhân dân địa phương tham gia vào các đội vận chuyển lương thực, nuôi quân, tải thương.

Từ căn cứ Ba Đình, nghĩa quân tỏa đi các nơi, kiểm soát các tuyến giao thông quan trọng trong vùng, phục kích các đoàn xe vận tải của đối phương đi lại trên con đường Bắc Nam, tập kích các toán lính hành quân, gây cho chúng nhiều khó khăn, tổn thất lớn về hậu cần và lực lượng.

Ba Đình ghi tên vào lịch sử

Chính vì tầm quan trọng chiến lược của căn cứ Ba Đình nên cuối năm 1886 quân Pháp quyết tâm triệt hạ căn cứ này. Ngày 18.12.1886, quân Pháp gồm 500 lính, có sự yểm trợ của pháo 80 li, tấn công Ba Đình từ hai hướng. Hướng tây nam do trung tá Metzinzer, hướng đông bắc do trung tá Dodds chỉ huy, nhưng đều bị nghĩa quân đánh lui.

140 năm Phong trào Cần Vương (1885 - 2025): Quyết tử chiến đấu ở căn cứ Ba Đình- Ảnh 2.

Nghĩa quân Khởi nghĩa Ba Đình bị bắt

Ảnh: T.L

Cùng thời gian này, Pháp cử đại tá Brissaud sang VN và được Bộ Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy lực lượng đánh phá căn cứ Ba Đình. Ngày 6.1.1887, Brissaud huy động một lực lượng đông đảo binh lính, chia làm ba mũi cùng với sự yểm trợ của pháo binh, đánh vào căn cứ. "Nghĩa quân do Đinh Công Tráng, Phạm Bành chỉ huy, dựa vào công sự kiên cố và tinh thần quyết tử chiến đấu suốt 32 ngày đêm (trong tháng 12.1886 và tháng 1.1887), bẻ gãy nhiều đợt tiến công của 3.530 lính (1.580 lính Pháp), 78 sĩ quan, có 25 khẩu đại bác và 4 pháo hạm hỗ trợ phối hợp tác chiến. Nghĩa quân đã tiêu diệt và làm bị thương hàng trăm tên địch, khiến quân Pháp hoang mang, dao động" (Dương Đình Lập, Căn cứ địa trong Phong trào Cần Vương chống Pháp (1885 - 1896)).

Không thể để căn cứ chắn ngang tuyến giao thông huyết mạch giữa Thanh Hóa và Ninh Bình làm cản trở mưu đồ thôn tính toàn bộ Bắc kỳ, Pháp quyết định nâng số quân tham chiến lên 3.530 lính, tăng số pháo sử dụng lên 36 khẩu, cắt đường tiếp tế, tiếp tục tiến đánh căn cứ của nghĩa quân. Lần này, Brissaud vừa cho phun dầu đốt cháy các lũy tre, vừa cho nã pháo tới tấp, biến Ba Đình thành một biển lửa.

Trước sức mạnh áp đảo về lực lượng và hỏa lực của giặc, nghĩa quân bị thiệt hại nặng. Đinh Công Tráng cùng các thủ lĩnh tổ chức cho nghĩa quân phá vòng vây, rút lui về căn cứ Mã Cao vào đêm 20.1.1887.

Sáng 21.1.1887, quân Pháp tiến chiếm Ba Đình, triệt phá nhà cửa, ruộng vườn, buộc triều đình nhà Nguyễn phải xóa tên ba làng khỏi bản đồ hành chính.

Ngày 5.10.1887 trong một trận đụng độ tại làng Trung Yên, nay thuộc xã Thuần Trung, tỉnh Nghệ An, Đinh Công Tráng đã anh dũng hy sinh.

Năm 1945, Đốc lý (Đô trưởng) Hà Nội Trần Văn Lai đã đổi tên Le parc Puginier (Vườn hoa Puginier) thành Vườn hoa Ba Đình để ghi nhớ cuộc khởi nghĩa Ba Đình và thủ lĩnh Đinh Công Tráng. Ngày 2.9.1945, tại Vườn hoa Ba Đình, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vườn hoa Ba Đình được người dân Hà Nội và cả nước mệnh danh là Quảng trường Ba Đình hay Quảng trường Độc Lập từ đó. (còn tiếp)

Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao