Công ty Phân tích Moody vừa công bố báo cáo dự báo tình hình kinh tế khu vực trong năm 2026.
Một năm nhìn lại
Theo báo cáo trên, so sánh GDP với xu hướng tăng trưởng trước đại dịch Covid-19 cho thấy sản lượng ở Đài Loan và Singapore cao hơn mức trung bình thế giới, nhờ vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của các mặt hàng công nghệ và dược phẩm. Nhật Bản, Hàn Quốc và Hồng Kông đang tụt hậu bởi những biến động chính trị, ví dụ như vụ thiết quân luật xảy ra ở Hàn Quốc, hoặc sự cạnh tranh ngày càng tăng từ bên ngoài trong xuất khẩu hàng hóa chế tạo, sự suy thoái kéo dài trên thị trường bất động sản Hồng Kông.

Đài Loan gặp nhiều thuận lợi nhờ sự bùng nổ của ngành AI
ẢNH: REUTERS
Việc đẩy mạnh xuất khẩu và sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo (AI) đã phần nào che mờ những khó khăn trong năm 2025. Nhìn vào xuất khẩu hàng hóa so với xu hướng năm 2023-2024, lượng hàng xuất khẩu đã tăng đáng kể ở Trung Quốc và Hồng Kông cho đến tháng 5 thì giảm, với sự tăng trưởng tương tự ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và các nước xuất khẩu ASEAN, bao gồm cả Singapore.
Mức thuế xuất khẩu vào Mỹ cao hơn đang ảnh hưởng các nhà sản xuất, vì vậy xuất khẩu đang chậm lại hoặc sẽ sớm chậm lại. Nhưng Đài Loan vẫn vượt qua những khó khăn này bởi nền kinh tế này là bên hưởng lợi chính từ sự bùng nổ AI - giúp thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu đối với các chip cao cấp được sản xuất ở Đài Loan. Nền kinh tế Đài Loan đã tăng trưởng 7,6% so với cùng kỳ năm ngoái trong quý 3, gần như hoàn toàn nhờ vào xuất khẩu. Nhưng bên cạnh lợi ích, sự bùng nổ AI cũng làm dấy lên những lo ngại về định giá cổ phiếu các công ty trong ngành bị thổi phồng. Sự hưng phấn của nhà đầu tư đã đẩy giá cổ phiếu trên toàn thế giới lên mức cao nhất kể từ bong bóng dot-com hồi thập niên 1990.
Ở những nơi khác, bức tranh lại kém khả quan hơn. Với mức thuế quan cao hơn của Mỹ, xuất khẩu các nền kinh tế trong khu vực bị thu hẹp đồng thời khiến nhu cầu nội địa các nền kinh tế này cũng bị ảnh hưởng tiêu cực. Nhu cầu có vẻ yếu ở hầu hết các thị trường phát triển tại châu Á, trong khi lạm phát ở mức bằng hoặc thấp hơn mục tiêu mà các ngân hàng trung ương đề ra. Một ngoại lệ đáng chú ý là Nhật Bản, nơi tiền yen yếu, các doanh nghiệp dần dần chuyển gánh nặng chi phí tăng thêm cho người tiêu dùng và chính sách thay đổi liên tục của chính phủ đã khiến lạm phát dai dẳng.
Các loại tiền tệ ở Đông Á đã suy yếu đáng kể trong 4 năm qua. Mặc dù sự suy yếu này gây lo ngại cho các nhà hoạch định chính sách ở Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng nó cũng giúp giảm bớt tác động từ thuế quan khi Mỹ tăng thuế trong năm nay. Yen Nhật đã mất giá hơn 40% kể từ năm 2019, và won Hàn Quốc đã mất gần 30%, bù đắp một phần đáng kể trong mức thuế nhập khẩu khoảng 15% của Mỹ đối với hàng hóa 2 nước này. Ngay cả Trung Quốc, quốc gia đạt thặng dư thương mại kỷ lục hơn 1.000 tỉ USD vào năm 2025, thì nhân dân dân tệ vẫn bị giảm giá.
Dự báo năm tới
Nhìn về năm 2026, các nền kinh tế phát triển ở châu Á phải đối mặt thách thức kép do thương mại chậm lại và nhu cầu nội địa yếu. Thuế nhập khẩu cao của Mỹ sẽ tiếp tục được duy trì.
Khi xuất khẩu chậm lại, nhu cầu nội địa yếu trở thành mối lo ngại lớn hơn. Nhìn vào xuất khẩu thực tế và nhu cầu nội địa so với xu hướng trước đại dịch cho thấy mặc dù xuất khẩu đã tăng mạnh, nhưng hiện đang có xu hướng giảm. Nhu cầu nội địa đã có vẻ yếu trước khi thuế quan được áp dụng. Các chính phủ đang đối mặt với một lựa chọn rõ ràng.
Các nền kinh tế có thể tìm kiếm các thị trường xuất khẩu mới hoặc thúc đẩy nhu cầu nội địa. Nhưng quá trình đa dạng hóa thương mại khó tạo ra những đột biến. Ví dụ, Hàn Quốc được cho là đang cân nhắc việc gia nhập Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), nhưng ngay cả khi tham gia thành công thì vẫn không thể lấp đầy khoảng trống do sự suy giảm từ thị trường Mỹ. Vì vậy, vấn đề then chốt vẫn là tăng cường nhu cầu nội địa.
Chính sách tiền tệ có thể giúp ích cho các nền kinh tế. Với việc các cơ quan tài chính phần lớn lựa chọn thận trọng, các ngân hàng trung ương sẽ làm những gì có thể để hỗ trợ tăng trưởng. Lạm phát thấp và việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiến cắt giảm lãi suất sẽ tạo điều kiện cho việc nới lỏng.
Thị trường nhà ở sẽ gây khó khăn cho việc các nền kinh tế lựa chọn chính sách điều hành. Giá bất động sản đã tăng vọt ở Đài Loan, ở mức cao tại Singapore và Nhật Bản. Giá nhà ở Hàn Quốc nhìn chung đang theo xu hướng nhưng vẫn ở mức cao. Các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt là ở Đài Loan và Hàn Quốc, lo ngại rằng việc cắt giảm lãi suất quá mạnh có thể gây ra những đợt tăng giá bất động sản. Còn lãi suất quá cao trong thời gian quá dài có thể làm tăng chi phí trả nợ hộ gia đình, do mức nợ của các hộ gia đình đang ở mức cao.