
Các khách mời của buổi tọa đàm
ảnh: thụy miên
Ngày 30.12 là thời điểm áp dụng Quy định chống mất rừng và suy thoái rừng của Liên minh châu Âu (EUDR) cho doanh nghiệp lớn của 7 ngành hàng xuất khẩu vào thị trường Liên minh châu Âu (EU). Bảy ngành hàng này gồm gia súc, đậu nành, gỗ, cà phê, cao su, ca cao, dầu cọ và một số sản phẩm phái sinh khác (như sô cô la, đồ nội thất, lốp xe…). Trong đó, 3 ngành của Việt Nam nằm trong phạm vi áp dụng là gỗ, cà phê, cao su.
Ngày áp dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ là 30.6.2026.
Tại buổi tọa đàm được tổ chức ở Hà Nội, đại diện các cơ quan chức năng, phía đối tác quốc tế và doanh nghiệp đã chia sẻ những thông tin mới nhất liên quan đến sự chuẩn bị của Việt Nam đối với EUDR.
Việt Nam ráo riết chuẩn bị cho EUDR
Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cho hay trước yêu cầu của EUDR, Việt Nam đã chủ động vào cuộc từ cuối năm 2023 và đặt ra kế hoạch triển khai vào năm 2024. Quá trình triển khai này được thực hiện với sự phối hợp chặt chẽ giữa khu vực công và khu vực tư, cùng với các nhóm công tác kết hợp giữa trung ương và địa phương.
Kế hoạch hành động của Việt Nam tập trung vào hai mục tiêu chính. Thứ nhất, chuẩn bị đầy đủ thông tin liên quan đến các vùng nguyên liệu và nguồn gốc sản phẩm. Thứ hai, tập trung ngăn ngừa những hành vi xâm lấn rừng tự nhiên để trồng các loại cây trồng khác như cà phê hoặc cao su, qua đó đảm bảo sự bền vững trong phát triển ngành nông nghiệp.
Đặc biệt, trong quá trình triển khai, Việt Nam đã thực hiện các mô hình thí điểm nhằm thu thập dữ liệu chính xác về các vùng trồng, đồng thời giảm thiểu chi phí và tạo điều kiện để người dân có thể tiếp cận thông tin một cách công bằng.
Nhờ sự nỗ lực của các cơ quan nhà nước và sự hỗ trợ quốc tế, Việt Nam đã được đánh giá ở nhóm rủi ro thấp theo hệ thống phân loại rủi ro quốc gia của EU. Trong khi đó, các đối thủ chính, chẳng hạn như Brazil và Indonesia trong ngành cà phê, nằm ở nhóm rủi ro tiêu chuẩn.
Ông Tuấn cũng cung cấp cập nhật từ Tham tán Việt Nam tại Phái đoàn EU, cho biết EU đưa ra một số đề xuất có lợi cho doanh nghiệp Việt Nam như, đơn giản hóa các thủ tục khai báo. Cụ thể, doanh nghiệp có thể chỉ cần khai báo thông tin tại khu vực nguyên liệu nguồn, và doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) sẽ chỉ phải thực hiện thủ tục khai báo một lần trong vài năm. Ngoài ra, các doanh nghiệp SME cũng được đề xuất gia hạn thời gian thực hiện thủ tục này. Các đề xuất cần được Nghị viện châu Âu thông qua mới có hiệu lực.
Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế cũng cho rằng nên bổ sung thêm phân loại các mức độ rủi ro, chẳng hạn thêm phân loại không có rủi ro hoặc mức rủi ro không đáng kể, nhằm tạo sự công bằng hơn cho các doanh nghiệp trong việc thực thi các quy định này.

Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường
ảnh: thụy miên
Vai trò của Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm
Ông Ông Trương Tất Đơ, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm- Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cho hay việc Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia rủi ro thấp có sự đóng góp lớn của Cục Lâm nghiệp, thông qua nhiều nỗ lực dài hạn trong bảo vệ và phát triển rừng bền vững.
Một trong những bước đi mang tính nền tảng là dừng khai thác rừng tự nhiên từ năm 2014, và chính thức chấm dứt hoàn toàn từ năm 2016. Cùng với đó, Việt Nam đã chủ động đàm phán Hiệp định Đối tác Tự nguyện VPA/FLEGT với EU và tham gia Cam kết Glasgow về bảo vệ rừng, góp phần củng cố vị thế quốc gia có rủi ro thấp trong đánh giá của EUDR.
Ngoài ra, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm duy trì kiểm kê rừng hằng năm, cung cấp số liệu thống kê minh bạch và chính xác. Hiện Việt Nam đang hướng tới đồng bộ hóa toàn bộ dữ liệu rừng, nhằm khắc phục chênh lệch giữa số liệu trong nước và châu Âu. Một nền tảng dữ liệu đang được xây dựng trên cơ sở hệ thống dữ liệu rừng quốc gia (GAC) cùng với các tổ chức đối tác, cho phép nông hộ và doanh nghiệp kiểm chứng tình trạng rừng — xác định xem khu vực khai thác có xảy ra mất rừng hoặc suy thoái rừng hay không. Theo kế hoạch, hệ thống này sẽ phân loại ba vùng rủi ro: cao, trung bình và thấp.
Về ngành hàng gỗ, theo chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Cục Lâm nghiệp đã thành lập tổ công tác chuyên trách, phối hợp với các hiệp hội gỗ xây dựng hướng dẫn tạm thời giúp doanh nghiệp thích ứng với quy định của EUDR. Cục đang rà soát để ban hành hướng dẫn chính thức trước ngày 1.1.2026, tạo cơ sở pháp lý cho doanh nghiệp triển khai.
Lãnh đạo bộ cũng đã gửi văn bản đến chủ tịch các tỉnh, yêu cầu rà soát, sắp xếp lại công tác quản lý rừng, nhằm tránh nguy cơ bị hạ bậc rủi ro trong quá trình đánh giá lần tới.

Nhà báo đặt câu hỏi cho các khách mời
ảnh: thụy miên
Doanh nghiệp Việt Nam chủ động thích ứng với EUDR nhưng đối mặt nhiều thách thức
Trong thời gian qua, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã tích cực tham gia các hội thảo, tập huấn và diễn đàn chia sẻ thông tin liên quan đến EUDR. Nhiều doanh nghiệp khẳng định, việc tuân thủ EUDR là "vấn đề sống còn" để duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là đối với ngành gỗ và các sản phẩm nông – lâm nghiệp.
Tuy nhiên, trong quá trình chuẩn bị thực hiện, doanh nghiệp gặp phải không ít khó khăn thực tế. Thách thức lớn nhất hiện nay là xác định tọa độ địa lý của các vùng nguyên liệu. Do đặc thù sản xuất nhỏ lẻ, nhiều hộ sở hữu rừng phân tán, thiếu bản đồ rõ ràng nên việc xác định vị trí trên thực địa còn nhiều vướng mắc. Ở nhiều địa phương, bản đồ rừng chưa được số hóa đầy đủ, khiến các doanh nghiệp phải tạm thời dựa vào dữ liệu bản đồ của châu Âu để hoàn thiện hồ sơ truy xuất nguồn gốc.
Bên cạnh đó, việc xác định tọa độ địa lý đối với nguyên liệu gỗ nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu sang châu Âu cũng là một thách thức lớn. Mặt hàng viên nén gỗ, vốn sử dụng phụ phẩm gỗ nhập khẩu, đang rơi vào tình trạng bế tắc do chưa có hướng dẫn cụ thể về cách xác định tọa độ và cung cấp thông tin truy xuất cho nhà nhập khẩu EU trong tuyên bố trách nhiệm giải trình.
Ngoài yếu tố kỹ thuật, doanh nghiệp cũng nhận thấy cần phải nâng cao nhận thức và năng lực thực thi các quy định của EU, bởi EUDR đòi hỏi mức độ minh bạch và trách nhiệm cao trong toàn bộ chuỗi cung ứng. Các hiệp hội ngành hàng đang tiếp tục phối hợp với cơ quan quản lý và đối tác quốc tế để tìm giải pháp tháo gỡ, giúp doanh nghiệp Việt Nam thích ứng hiệu quả hơn với quy định mới này.
Sự hỗ trợ của quốc tế
Ông Cyril Loisel, Bí thư Thứ nhất – Phụ trách Biến đổi khí hậu, Môi trường, Việc làm và Chính sách Xã hội, Phái đoàn EU tại Việt Nam, khẳng định Nghị viện châu Âu và Hội đồng EU đều nhất trí rằng cần thúc đẩy đối thoại và hợp tác với các quốc gia đối tác, trong đó có Việt Nam, nhằm đảm bảo quy định này được thực thi một cách đúng đắn và hiệu quả.
Theo đại diện EU, hiện có nhiều dự án và chương trình hợp tác được triển khai để tăng cường trao đổi, gắn kết và hiểu biết lẫn nhau giữa EU và các nước đối tác, gồm Việt Nam. Bên cạnh đó, EU cũng đang hỗ trợ xây dựng năng lực cho các quốc gia trong chuỗi cung ứng các mặt hàng nông – lâm sản liên quan đến EUDR.
"Chúng tôi có Sáng kiến Team Europe về chuỗi giá trị không gây mất rừng, trong đó Việt Nam là một trong những quốc gia được ưu tiên. Một dự án cụ thể đang được triển khai tại Việt Nam tập trung vào ngành cà phê bền vững, bên cạnh đó còn có các hoạt động trong lĩnh vực ca cao và lâm nghiệp", theo ông.
Còn theo ông Oemar Idoe, Trưởng khối các dự án môi trường, nông nghiệp và biến đổi khí hậu - GIZ tại Việt Nam, GIZ hiện triển khai hai dự án hỗ trợ Việt Nam thực hiện EUDR. Dự án thứ nhất là SAFE – Nông nghiệp bền vững cho hệ sinh thái rừng, do EU, Đức và Hà Lan tài trợ, giúp Việt Nam chuyển đổi sang chuỗi giá trị không gây mất rừng, nâng cao năng lực truy xuất nguồn gốc và hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp tuân thủ EUDR.
Dự án thứ hai là Nâng cao nhận thức về EUDR, do EU tài trợ, tổ chức hội thảo, đào tạo hơn 500 người, trong đó có cán bộ, doanh nghiệp và báo chí, nhằm tăng hiểu biết và năng lực thực thi quy định EUDR tại Việt Nam.
Một ví dụ điển hình là từ ngày 5-6.11, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam và GIZ tổ chức khóa tập huấn dành cho các cơ quan báo chí trên toàn quốc về EUDR.