Từ xuất thô đến tự chủ công nghệ

Những ngành chủ lực chỉ gia công, xuất thô...

Gắn bó với ngành dệt may VN sau giai đoạn đất nước đổi mới từ Đại hội Đảng lần VI (năm 1986) và đến nay vẫn còn hoạt động khi tuổi đời đã bước sang tuổi 80, ông Phạm Xuân Hồng, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần May Sài Gòn 3, Chủ tịch Hội Dệt may Thêu đan TP.HCM, nhớ lại: Trước khi đất nước thống nhất, phía bắc đã có một số công ty dệt và những xí nghiệp may hoạt động nhưng số lượng còn ít. 

Lịch sử ngành dệt may thực sự bước sang trang mới vào năm 1976 khi lần đầu tiên xuất khẩu sang các nước Đông Âu, điển hình là Liên Xô (cũ). Tại TP.HCM cũng có Liên hiệp các xí nghiệp may TP.HCM, là đơn vị chủ quản quản lý một số xí nghiệp may xuất khẩu ở TP.HCM. Khi đó, vải là một mặt hàng vô cùng khan hiếm. Để có vải, người dân phải có tem vải, phiếu vải do nhà nước cấp. Trong nước có vải được dệt từ Nhà máy Dệt 8-3, vải thô, kaki của Nhà máy Dệt Nam Định sản xuất nhưng chỉ có hai màu cơ bản là xanh công nhân và tím than. Vì vậy ngành may VN hầu như nhập khẩu nguyên phụ liệu từ Liên Xô và gia công, một phần cung ứng cho nhu cầu trong nước và xuất sang khu vực thị trường Đông Âu. 

"Từ cây kim, sợi chỉ đến hạt nút và tất nhiên toàn bộ vải đều phải nhập khẩu. Chúng ta sau đó vẽ mẫu bằng tay, cắt ra và lắp ráp xong sẽ nhận về tiền công. Lúc đó chỉ có cái máy may và không có máy móc gì khác. Hàng dệt may VN không ai biết và chỉ có ở một số nước như Liên Xô và thị trường Đông Âu nhưng sản lượng không nhiều", ông Phạm Xuân Hồng nhớ lại. Đến sau giai đoạn đổi mới, từ năm 1987 - 1990, ngành dệt may phát triển rõ rệt hơn với hàng ngàn công ty lớn nhỏ ra đời, sản lượng tăng nhanh, xuất khẩu mở rộng ra nhiều thị trường lớn trên thế giới. Từ đó dệt may trở thành một trong những ngành xuất khẩu chủ lực. Không chỉ mang về nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước mà còn giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn, hàng vạn người.

Từ xuất thô đến tự chủ công nghệ- Ảnh 1.

Nhà máy Dệt 8-3 khánh thành ngày 8.3.1965

ẢNH: TTXVN

Dịch chuyển tư duy phát triển của VN

Trong giai đoạn 2006 - 2025, Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng, tạo nền tảng và động lực thúc đẩy phát triển kinh tế theo hướng bền vững và hội nhập. Trong đó, Nghị quyết số 68 có ý nghĩa lịch sử, khơi thông nguồn lực, đảm bảo doanh nghiệp tư nhân tiếp cận công bằng vốn, nhân lực, khuyến khích kết nối chuỗi cung ứng và đưa doanh nghiệp Việt vươn ra quốc tế. Hay Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo... Những quyết sách này cho thấy sự dịch chuyển trong tư duy phát triển của VN, từ chủ yếu tập trung vào tốc độ tăng trưởng sang cân bằng giữa tăng trưởng nhanh, bền vững, hiệu quả và bao trùm. Đồng thời tích cực chủ động tham gia sâu rộng vào các xu thế phát triển chung của thế giới.

PGS-TS Nguyễn Quốc Việt

Tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu qua chế biến tăng từ 65% năm 2016 lên 85% năm 2020 và 88% vào năm 2024. Năng lực cạnh tranh công nghiệp của VN cải thiện đáng kể, tăng từ vị trí 97 vào năm 1990 lên vị trí 30 vào năm 2020 - 2021 và đứng vị trí thứ 4 trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương (sau Singapore, Malaysia và Thái Lan).

Không chỉ riêng ngành dệt may, ngay cả nông nghiệp, vốn là thế mạnh của VN nhưng trước đây cũng chỉ xuất thô bán rẻ. Thậm chí cây cà phê đã được người Pháp đưa vào trồng ở VN từ rất lâu nhưng đại đa số người dân không được biết đến thức uống này. Tương tự, cây hồ tiêu được ghi nhận đã trồng ở VN từ thế kỷ 17 nhưng sản xuất hồ tiêu chỉ thực sự phát triển mạnh từ sau năm 1997…

Chứng kiến quá trình xây dựng, phát triển của đất nước trong suốt chiều dài lịch sử cho đến nay, TS Lê Đăng Doanh bồi hồi nhớ lại: Trong hành trình 80 năm kể từ ngày độc lập năm 1945 thì thực sự đã mất 30 năm chiến tranh để thống nhất đất nước. Việc xây dựng kinh tế chỉ thực sự bắt đầu từ sau năm 1975. Khi đó chúng ta vẫn tiếp tục thiếu ăn, người dân phải ăn bo bo, phải nhập khẩu lương thực… Giai đoạn từ 1975 - 1986, cả nước vừa khắc phục hậu quả chiến tranh để lại vừa đối diện chiến tranh biên giới. Trong khi đó cơ chế quản lý cũ, bao cấp khiến kinh tế tăng trưởng thấp, có năm rơi vào suy thoái và VN vẫn là nước nghèo. Những ngành sản xuất công nghiệp truyền thống như dệt may, da giày phụ thuộc hoàn toàn vào nguyên phụ liệu nước ngoài. Sau năm 1986 trở đi bắt đầu có thay đổi nhưng những năm thập niên 90, VN vẫn chỉ xuất khẩu sản phẩm thô. 

"Khi chúng ta tự chủ được lương thực thực phẩm và bắt đầu có dư cũng như khi mở cửa thị trường, giao thương với thế giới thì cũng chỉ toàn xuất khẩu thô theo kiểu "cứ trồng lên xong thu hoạch là bán". Nền kinh tế hoàn toàn thiếu vắng câu chuyện hàng chế biến sâu với nhiều sản phẩm tiêu dùng chất lượng", ông nói.

Tới cường quốc xuất khẩu nhiều mặt hàng

Từ gia công xuất thô với giá rẻ, ngày nay VN đã vươn lên thành cường quốc xuất khẩu hàng loạt mặt hàng. Năm nay, VN được dự báo trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Chúng ta là nước xuất khẩu hồ tiêu lớn nhất toàn cầu. Với cà phê, VN không chỉ mang về mỗi năm vài tỉ USD mà còn đang nổi lên như một "tay chơi" lớn trên thị trường với tham vọng thay đổi gu uống của giới sành cà phê phương tây từ giống robusta sở trường của mình. Dệt may, da giày vẫn là những ngành xuất khẩu chủ lực suốt nhiều thập niên trở lại đây nhưng tự chủ được nguyên phụ liệu từ 35 - 40% thay vì nhập từ cái kim, sợi chỉ như trước. 

Dẫn câu chuyện của Công ty Bóng đèn phích nước Rạng Đông, TS Lê Đăng Doanh chia sẻ: Công ty trước đây chỉ sản xuất được bóng đèn và phích nước. Thế nhưng khi bắt đầu đổi mới sau năm 1986, sản phẩm Trung Quốc giá rẻ tràn vào VN khiến công ty này suýt bị phá sản, Rạng Đông mất dần thị trường. Để vượt qua giai đoạn này, công ty dần thay thế các dây chuyền cũ thủ công bằng dây chuyền tự động hóa để nâng cao năng suất… Gần đây nhất, công ty đã chuyển sang đưa vào vận hành lò sản xuất thủy tinh không chì đầu tiên tại VN, góp phần giúp doanh nghiệp Việt thay thế nguyên liệu nhập khẩu với chi phí lên tới hàng triệu USD mỗi năm. Rạng Đông cũng trở thành nhà cung cấp những sản phẩm thông minh, giải pháp cho nhà ở (Smart Home) cho người tiêu dùng với hàng loạt thiết bị quan sát, điều khiển từ xa… 

"Rạng Đông chỉ là một ví dụ mà tôi cho rằng các doanh nghiệp VN đã chuyển đổi rất mạnh mẽ trong thời gian qua, góp phần đưa kinh tế VN thay đổi lớn. Từ những sản phẩm đơn giản của những ngày trước thì đến nay đã ứng dụng công nghệ cao, tự động hóa sản xuất và cung cấp ra thị trường sản phẩm chất lượng. Không chỉ chiếm lĩnh được thị trường nội địa, nhiều doanh nghiệp đã vươn ra thị trường trong khu vực và cả toàn cầu. Nhìn ra nhiều lĩnh vực, nếu trước đây chúng ta chỉ xuất khẩu mỗi con tôm hay cà phê hạt thì nay đã có nhiều công ty chế biến tôm bao bột, nhiều loại cà phê rang xay, hòa tan cũng như các sản phẩm chế biến, đóng hộp trong ngành nông lâm thủy sản. Nhiều ngành hàng vươn lên dẫn đầu xuất khẩu trên thế giới hay đứng trong top 3 và duy trì vị thế này liên tục nhiều năm như hồ tiêu, cà phê, thủy sản", TS Lê Đăng Doanh nhận xét.

Từ xuất thô đến tự chủ công nghệ- Ảnh 2.

Sản phẩm robot hình người "Make in Vietnam" do Công ty VinMotion sản xuất

ẢNH: V.G

Gắn bó cả đời với ngành dệt may, nhìn lại hành trình suốt nhiều thập niên qua, ông Phạm Xuân Hồng cũng tự hào khi ngành dệt may VN đã vươn lên xuất khẩu đứng thứ hai thế giới. Sản phẩm dệt may VN được các tập đoàn nước ngoài đặt hàng và hầu như phủ kín thị trường các quốc gia, lãnh thổ toàn cầu. "Không chỉ tay nghề người lao động VN luôn được đánh giá cao mà ứng dụng công nghệ trong ngành may cũng không thua kém bất kỳ nước nào. Hầu hết các công đoạn sản xuất đều được tự động hóa từ công đoạn giặt (wash) đến phát triển sơ đồ, mẫu, cắt… Chỉ còn lại khâu hoàn tất cuối cùng là may vẫn cần đến tay nghề người thợ thì khâu này VN hoàn toàn không thua kém. Tuy nhiên chúng ta chưa phát triển mạnh về ngành dệt nên nguồn nguyên liệu chính là vải vẫn còn nhập khẩu nhiều từ nước ngoài. Tôi cũng hy vọng theo thời gian thì nguồn nguyên liệu chính trong nước sẽ phát triển mạnh hơn", ông Phạm Xuân Hồng nói.

Đặc biệt gần đây, một số sản phẩm công nghệ cao "Make in Vietnam" như sản xuất robot hình người, máy bay không người lái, xe giao hàng tự động... do các doanh nghiệp trong nước tự chủ sản xuất cũng đã có mặt trên thị trường. Đây là một bước tiến rất lớn từ một nước thuần nông sang công nghiệp hóa và đến nay là hướng đến công nghệ cao, công nghiệp bán dẫn của VN.

Đẩy mạnh sản phẩm công nghệ cao, tự tin bước vào kỷ nguyên mới

PGS-TS Nguyễn Quốc Việt, Trường ĐH Kinh tế (ĐH Quốc gia Hà Nội), đánh giá: Từ năm 2006 - 2025 đánh dấu một thời kỳ chuyển mình mạnh mẽ của kinh tế VN, với những thành tựu nổi bật xen kẽ các thách thức lớn từ bối cảnh kinh tế toàn cầu và nội tại. Đến nay, VN nổi lên như một điểm đến hấp dẫn cho các tập đoàn đa quốc gia chuyển dịch chuỗi sản xuất, đặc biệt trong các ngành công nghệ cao như điện tử và bán dẫn (ví dụ: Apple, Samsung, Intel, LG, Nike, Adidas). Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài duy trì tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các thành phần kinh tế và luôn đạt trạng thái xuất siêu, góp phần kéo giảm nhập siêu chung của cả nước trong giai đoạn sau khi gia nhập WTO và dần trở thành nước xuất siêu thương mại hàng hóa trong 9 năm liên tiếp tính đến 2024. Song song đó, đến năm 2024, kinh tế tư nhân chiếm tới hơn 97,2% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động, đóng góp khoảng trên 50% GDP và tạo ra khoảng 85% việc làm. Mặc dù chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, khu vực này được xác định là động lực chính của sự phát triển kinh tế và đến nay được xem là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế.

Từ xuất thô đến tự chủ công nghệ- Ảnh 3.

Dòng vốn FDI vào VN đã chảy nhiều vào các dự án công nghệ cao (Trong ảnh là một nhà máy sản xuất Samsung tại VN)

ẢNH: THÙY LINH

PGS-TS Trần Hoàng Ngân, chuyên gia kinh tế, Đại biểu Quốc hội, cũng nhận định kinh tế VN đã chuyển đổi từ chiều rộng sang chiều sâu. Ngành nông lâm thủy sản từ xuất thô đã chuyển sang chế biến nhiều hơn. Ví dụ các sản phẩm OCOP - đặc thù của từng địa phương - được khuyến khích cũng góp phần tạo ra hàng hóa phong phú hơn. Dòng vốn FDI từ tận dụng lao động giá rẻ, sử dụng công nghệ cũ thì nay hàng loạt tập đoàn công nghệ lớn đều có mặt và sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, mới nhất theo xu hướng phát triển của thế giới. VN đã có các khu công nghệ cao, khu công nghiệp phần mềm hay các trung tâm R&D quy mô lớn và kinh tế số cũng tăng cao. 

"Trong những năm gần đây chúng ta đã đầu tư mạnh về hạ tầng cơ sở và sắp tới có nhiều dự án lớn hoàn thành như sân bay Long Thành, đường sắt tốc độ cao… Song song đó, các địa phương sau sáp nhập sẽ có nhiều dư địa, không gian phát triển mới. Cùng với những chính sách triển khai từ 4 trụ cột và quyết tâm chính trị, khát vọng của Chính phủ, người dân thì tôi tin rằng VN sẽ vươn lên đến mục tiêu năm 2045 trở thành nước có thu nhập cao", TS Trần Hoàng Ngân kỳ vọng.

Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao