Hạt gạo vươn mình cùng đất nước

Từ thiếu ăn đến cường quốc xuất khẩu

GS-TS Bùi Chí Bửu, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, một trong những người làm việc ở Viện từ những ngày đầu tiên, chia sẻ VN có nền văn minh lúa nước từ xa xưa. Thời Pháp thuộc, có lúc chúng ta đã xuất khẩu trên 1 triệu tấn gạo nhưng do chiến tranh, VN đã trải qua những giai đoạn đen tối khi có đến 2 triệu người chết đói trong thời điểm trước Cách mạng Tháng Tám 1945. Sau năm 1945, ở cả 2 miền Bắc và Nam tiếp tục thiếu ăn và phải nhập khẩu gạo. "Sau năm 1975, chúng ta vẫn tiếp tục thiếu ăn và phải nhập khẩu lương thực trên 2 triệu tấn mỗi năm, trong đó có 1 triệu tấn gạo và còn lại là bo bo. Người Việt trên cả nước phải ăn cơm độn để chống đói", GS Bửu kể lại.

 - Ảnh 1.

Từ chỗ thiếu ăn, nay Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới

ẢNH: CÔNG HÂN

 - Ảnh 2.

Đồ Họa: Tuấn Anh

"Lịch sử lúa gạo VN không thể quên những người đã dám "xé rào" để thay đổi thực tế nghèo đói, là Kim Ngọc - Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú ở miền Bắc; và bác Sáu Dân (cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) ở miền Nam. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người chủ trương xẻ kênh Hồng Ngự, lấy nước ngọt từ vùng đầu nguồn sông Tiền đưa về Long An để khai phá vùng Đồng Tháp Mười. Bên cạnh đó là chương trình thoát lũ ra biển Tây để khai mở vùng tứ giác Long Xuyên. Nhờ khai phá 2 vùng này, chúng ta mới nhanh chóng gia tăng sản lượng lúa gạo, giúp đất nước đẩy lùi nạn đói", GS Bửu nhận định.

Bên cạnh thủy lợi là tăng diện tích sản xuất và tăng vụ. Nhưng ở miền Tây, việc tăng vụ lại vướng mùa nước nổi (lũ) nên yêu cầu đặt ra là phải có giống ngắn ngày để "né lũ". Bác Sáu Dân chỉ đạo Viện Lúa nghiên cứu lai tạo ra giống ngắn ngày. Từ năm 1985, việc nghiên cứu bắt đầu và đến năm 1989 Viện đã cho ra đời giống lúa ngắn ngày từ 120 ngày xuống còn dưới 100 ngày. Nhờ đó, năm 1989 cũng là năm VN nối lại hoạt động xuất khẩu gạo, trong khi năm trước đó vẫn phải nhận viện trợ gạo.

Việc nghiên cứu lai tạo tiếp tục được hoàn thiện, chẳng những giống ngắn ngày mà năng suất liên tục được cải tiến, tăng từ 2 - 3 tấn/ha lên 9 - 10 tấn/ha. Sản lượng lúa của ĐBSCL sau năm 1975 chỉ có 4 triệu tấn/năm, sau đó nâng lên 7 triệu tấn nhờ mở rộng sản xuất. Đến khi có giống cao sản ngắn ngày thì đến năm 1990 đã tăng lên 19 - 20 triệu tấn và hiện nay là 25 triệu tấn so với tổng sản lượng cả nước là 43 triệu tấn.

Viện Lúa ĐBSCL còn tiến thêm một bước quan trọng là "kéo dài hạt gạo". Lý do là hạt gạo VN khi đó rất ngắn, cứng cơm nên khó xuất khẩu và giá rẻ. Viện mất thêm 5 năm để "kéo dài" hạt gạo từ 6 mm lên 7 mm và thêm 7 năm lai giống để hạt gạo đạt hàm lượng amylose trung bình nhằm mềm và dẻo hóa hạt gạo. "Từ năm 1985, Viện Lúa ĐBSCL lao vào công cuộc lai tạo giống. Trung bình mỗi năm Viện thực hiện 200 tổ hợp lai gối đầu nhau, bắt đầu bằng giống OM80 nhằm rút ngắn thời gian sinh trưởng, kéo dài và mềm hóa hạt gạo, rồi lai tạo các giống kháng sâu bệnh, rầy nâu. Sau một chuỗi dài thành công, năm 2006 cộng đồng quốc tế công nhận đó là kỳ tích của gạo VN. Vì nếu so với Thái Lan, diện tích sản xuất của chúng ta ít nhưng hiệu quả mang lại lớn", GS Bửu kể.

Nhờ những thành tựu đó, VN ngày nay đã trở thành cường quốc xuất khẩu gạo. Năm 2024, xuất khẩu gạo đạt mức kỷ lục 9,18 triệu tấn với kim ngạch 5,75 tỉ USD, tăng 12,9% về lượng và tăng 23% về giá trị so với năm 2023. VN đã có gạo ST25 được công nhận ngon nhất thế giới. Mấy năm trở lại đây, giá gạo Việt luôn thuộc hàng cao nhất thế giới.

Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội lương thực VN (VFA), tự tin năm nay chúng ta sẽ xuất khẩu gạo đạt ít nhất 8 triệu tấn và nhiều khả năng sẽ là nhà xuất khẩu lớn thứ 2 thế giới chỉ sau Ấn Độ. Dự báo của ông Nam cũng trùng khớp với báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ trong tháng 8 rằng năm nay VN sẽ xuất khẩu 8,2 triệu tấn gạo, nhiều hơn Thái Lan 1 triệu tấn.

Gạo Việt trong kỷ nguyên mới

TS Đặng Kim Sơn, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao (nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược NN-PTNT), nhận định: "Nhìn lại sự phát triển của lúa gạo mấy chục năm qua có thể thấy, để đưa một ngành hàng từ yếu kém sang hùng mạnh như hiện nay, chúng ta phải có một hệ thống chính sách tổng hợp để tạo nền tảng. VN đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống, chính sách tổng hợp từ nền móng ban đầu, cơ sở hạ tầng, vật tư đầu vào đến hệ thống đầu ra, rồi chế biến và thương mại. Hệ thống chính sách tổng hợp đó đã giúp ngành lúa gạo vươn tầm thế giới như hiện nay. Nó cũng chứng tỏ lúa gạo cũng như nông nghiệp là lợi thế cạnh tranh quốc gia và điều này cũng được khẳng định trong Nghị quyết 19 của T.Ư Đảng (Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045)".

 - Ảnh 3.

Cần xây dựng sức mạnh mềm cho hạt gạo Việt Nam

ẢNH: CÔNG HÂN

Thực tế, hạt gạo Việt đã bước lên một giai đoạn phát triển mới. Chúng ta luôn giữ được mức giá vào loại cao nhất thế giới, đặc biệt so với đối thủ thường xuyên là Thái Lan. Các thị trường của chúng ta không bị ảnh hưởng nhiều bởi các cú sốc do các nước xuất khẩu lớn thay đổi sản lượng như trường hợp của Ấn Độ. Tuy nhiên dư địa của ngành còn rất lớn. Trong ký ức về hành trình của hạt gạo VN, với GS Bùi Chí Bửu còn có sự đóng góp quan trọng của cố Phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn. "Ông bắt chúng tôi nghiên cứu mô hình nông nghiệp của Hà Lan về ứng dụng cho VN. Ông bảo, Hà Lan chỉ có 2 triệu héc ta đất sản xuất nông nghiệp nhưng xuất khẩu nông sản đạt giá trị 140 tỉ USD, đứng thứ 2 thế giới sau Mỹ. Trong khi VN có 10 triệu héc ta đất nông nghiệp nhưng mới xuất khẩu có 60 tỉ USD nông sản. Bài học của Hà Lan là diện tích nhỏ thì phải đầu tư lớn, đặc biệt là KH-CN, thông tin dữ liệu về khí hậu, thị trường và áp dụng trí tuệ nhân tạo vào sản xuất. Nhờ vậy mà họ đứng đầu thế giới về hoa, hành tây và khoai tây. Ở VN, mức độ đầu tư còn thấp nên lúa gạo cũng như nông nghiệp nói chung chưa tiến lên công nghệ cao và số hóa được. Để nâng cao giá trị gạo Việt phải đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh sang các phân khúc gạo dinh dưỡng phục vụ những nhóm đối tượng như người tiểu đường, huyết áp, ung thư. Đó chính là dư địa của hạt gạo Việt trong tương lai", GS Bửu nhấn mạnh.

TS Đặng Kim Sơn cũng khẳng định, dư địa của ngành lúa gạo vẫn còn rất lớn. "Chúng ta bước vào kỷ nguyên mới, trong đó đột phá là cuộc cách mạng về thể chế. Đối với nông nghiệp nói chung và ngành hàng lúa gạo cũng tương tự, điều quan trọng nhất theo tôi về mặt tổ chức ngành hàng phải thay đổi", TS Đặng Kim Sơn nói. Theo ông Sơn, bài học thành công của nhiều nước là các ngành hàng được tổ chức theo hình thức "hội đồng ngành hàng". Ví dụ ở ngành hàng lúa gạo là "hội đồng lúa gạo" sẽ có đại diện không chỉ của Bộ NN-MT, Công thương mà còn của các tỉnh thành sản xuất chính, đại diện doanh nghiệp lớn, người sản xuất nhỏ là nông dân và HTX, thương lái, người chế biến. Một hội đồng như thế sẽ chịu trách nhiệm quán xuyến toàn bộ công tác điều hành phát triển, vận hành của ngành hàng đó. Bên cạnh đó, đã đến lúc chúng ta phải xây dựng một số vùng chuyên canh. Hiện tại chúng ta có các vùng sản xuất lớn ở đồng bằng sông Hồng, ĐBSCL và đặc biệt là các vùng chuyên canh theo đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, nhưng chưa rõ nét và chưa gắn được với thị trường tiêu thụ cụ thể. "Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ, đã đến lúc chúng ta phải đẩy mạnh xây dựng các vùng chuyên canh, số hóa đến từng thửa ruộng theo lợi thế tự nhiên. Ví dụ vùng sản xuất lúa nếp phục vụ thị trường Trung Quốc, lúa Japonica cho thị trường Đông Bắc Á, lúa Halal cho thị trường Hồi giáo… Mỗi vùng chuyên canh gắn với một hệ sinh thái mà thị trường đòi hỏi như hệ thống chế biến, logistics, tiêu chuẩn kỹ thuật, cảnh quan môi trường nhất định", TS Sơn dẫn chứng.

Với việc định hướng như thế, VN sẽ mời gọi các thị trường lớn của gạo Việt tham gia đầu tư xây dựng các vùng chuyên canh, thậm chí cho phép xây kho ngoại quan để họ yên tâm được đảm bảo về an ninh lương thực. "Không chỉ ở Đông Nam Á mà các nước lớn như Nhật Bản, Trung Đông, thậm chí là châu Âu… cũng lo lắng về an ninh lương thực. Nếu làm được như thế, tôi tin vốn FDI không chỉ chảy vào các khu công nghiệp mà còn vào sản xuất nông nghiệp. Khi VN "lo" đảm bảo lương thực cho các nước bạn thì họ sẽ tham gia đầu tư vào VN. Cách làm như thế tạo ra sức mạnh mềm cho dân tộc. Đây là bước đi mà chúng ta biến quan hệ ngắn hạn mua bán thành quan hệ dài hạn đầu tư", TS Đặng Kim Sơn nhấn mạnh.

"Hạt gạo không chỉ là kinh tế mà tiến thêm một bước nữa, hạt gạo VN phải là văn hóa, là ngoại giao, là quốc phòng. Hạt gạo VN phải là sức mạnh mềm của đất nước. Tôi nghĩ giấc mơ đó còn có thể tiếp tục đi xa hơn khi nông dân, kỹ sư VN có thể ra nước ngoài sản xuất lúa gạo với tư cách là những cán bộ kỹ thuật, nhà kinh doanh, nhà chế biến. Phối hợp với các nước cùng sản xuất, buôn bán và hưởng lợi".

TS Đặng Kim Sơn

Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao