Đó là một số kiến nghị của các doanh nghiệp tại phiên đối thoại chuyên đề "Mài sắc các mũi nhọn chiến lược để vươn tầm quốc tế" trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2025 diễn ra chiều 15.9, tại Hà Nội.

Phó tổng giám đốc Tập đoàn Đại Dũng Đỗ Trí Tuấn kiến nghị cần phối hợp chặt chẽ nhằm xây dựng hệ sinh thái bền vững cho ngành gia công kết cấu thép và cơ khí chế tạo
ẢNH: VIỆT LINH
Hơn 30 năm hình thành, phát triển trong lĩnh vực vực gia công kết cấu thép và cơ khí chế tạo, Tập đoàn Đại Dũng đã thực hiện hàng nghìn dự án trọng điểm trong và ngoài nước, hiện đang xuất khẩu tới trên 50 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Ông Đỗ Trí Tuấn, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Đại Dũng, nhìn nhận thời gian qua, ngành gia công kết cấu thép và cơ khí chế tạo Việt Nam đạt những thành tựu đáng kể, song vẫn đối mặt với nhiều điểm nghẽn làm hạn chế khả năng tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Nhiều nhà máy trong nước mới đáp ứng công trình dân dụng, chưa đạt chuẩn cao cho công nghiệp, năng lượng, dầu khí. Tỷ lệ tự động hóa, công nghệ xử lý bề mặt, quản trị carbon còn hạn chế. Điều này khiến doanh nghiệp khó đáp ứng tiêu chuẩn xanh cho các dự án năng lượng tái tạo.
"Hiện nay, xuất khẩu cơ khí kết cấu thép của Việt Nam mới đạt 1,2 - 1,5 tỉ USD/năm, chiếm chưa tới 1% thị trường toàn cầu. Nhu cầu thị trường rất lớn, còn nhiều cơ hội. Tuy nhiên, chi phí logistics, chi phí thuế chống bán phá giá, gần đây là thuế đối ứng của Mỹ là một trong những rào cản rất lớn khi Việt Nam tham gia các thị trường quốc tế", ông Tuấn nhấn mạnh.
Theo thống kê, chi phí logistics của Việt Nam chiếm khoảng 16,5% GDP năm 2025, cao hơn mức trung bình thế giới (11,6%) và các nước ASEAN như Singapore (8,5%), Malaysia (13%). Chi phí logistics ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu.
Ông Tuấn kiến nghị, thời gian tới cần gia tăng sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và cộng đồng quốc tế, nhằm xây dựng hệ sinh thái bền vững cho ngành gia công kết cấu thép và cơ khí chế tạo; đồng hành phát triển logistics và hạ tầng xuất khẩu như đầu tư cảng chuyên dụng, bãi lắp ráp và vận chuyển kết cấu thép tại các trung tâm logistics lớn.
Cạnh đó, hình thành trung tâm xuất khẩu kết cấu thép Việt Nam, giảm chi phí và nâng cao năng lực cạnh tranh; thí điểm mô hình logistics xanh và hệ thống theo dõi số hóa, giúp giảm 15 - 20% chi phí vận chuyển. "Cần tăng ngân sách nhà nước cho hạ tầng logistics, tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm nhằm giảm chi phí logistics", ông Tuấn nói.
Nhà nước tập trung hạ tầng "cứng", doanh nghiệp hạ tầng "mềm"
Cũng đầy trăn trở với chi phí logistics, theo ông Nguyễn Mạnh Hùng, CEO Nafoods Group, chi phí logistics trong ngành nông nghiệp "rất khủng khiếp", chiếm khoảng 20% giá thành, ảnh hưởng đáng kể tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt.

CEO Nafoods Group Nguyễn Mạnh Hùng rất trăn trở với chi phí logistics trong ngành nông nghiệp
ẢNH: VIỆT LINH
Doanh nghiệp này đề xuất Nhà nước và doanh nghiệp đồng hành phát triển logistics và hạ tầng bảo quản lạnh: đầu tư trung tâm logistics xanh, cảng cạn, kho lạnh thông minh ngay tại vùng nguyên liệu.
Nhà nước tập trung hạ tầng "cứng", doanh nghiệp đảm nhận hạ tầng "mềm" là quản trị, công nghệ. Cạnh đó, Nhà nước và doanh nghiệp cùng chia sẻ chi phí xúc tiến thương mại quốc tế theo mô hình thị trường; xây dựng thương hiệu quốc gia cho một số ngành hàng chủ lực như chanh leo, xoài, cà phê, gạo…
"Xuất khẩu nông sản hàng năm của Việt Nam lên tới 50 tỉ USD, tuy nhiên, chủ yếu vẫn là xuất khẩu nguyên liệu thô. Phải làm sao để tạo giá trị gia tăng cao hơn, biên lợi nhuận không chỉ dừng ở 15 - 30% mà vươn lên trên 40%.
Mấu chốt trong nâng cao giá trị đó vẫn phải dựa vào khoa học - công nghệ, chuyển đổi số. Để hỗ trợ, thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, quan trọng nhất là cơ chế, chính sách cụ thể. Phải tháo nút thắt, bổ sung các chính sách về thuế, đất đai, các vấn đề liên quan chuyển đổi số, khoa học - công nghệ… Chính sách mới phải làm sao để các doanh nghiệp có thể mạnh dạn đầu tư vào khoa học - công nghệ, làm rõ Nhà nước có thể hỗ trợ cái gì trong đó", ông Hùng đề xuất.
Đề cập góc độ thiếu liên kết ngành, thiếu thương hiệu quốc gia thực sự mạnh cho ngành cơ khí chế tạo và kết cấu thép Việt Nam, ông Tuấn cho biết, các doanh nghiệp nội địa thường chỉ dừng ở vai trò nhà thầu phụ, đơn vị gia công, chưa vươn lên nhà thầu chính.
Những hạn chế này không chỉ làm giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của ngành mà còn khiến Việt Nam chủ yếu đóng vai gia công cơ bản trong chuỗi cung ứng toàn cầu, thay vì trở thành nhà cung cấp chiến lược cho các tập đoàn lớn, dự án lớn tầm cỡ trên thế giới.
Vị doanh nhân kiến nghị, cần có cơ chế, chính sách cụ thể để doanh nghiệp trong nước được tham gia trực tiếp với vai trò EPC (tổng thầu - PV) cho các dự án trọng điểm về hạ tầng, công nghiệp, năng lượng…, các dự án lớn ở Việt Nam như các dự án metro, đường sắt cao tốc, nhiệt điện, lọc hóa dầu…