
Thạc sĩ Trần Cao Thành, Thư ký Ban điều hành Mạng lưới các cơ sở đào tạo luật tại Việt Nam, phát biểu tại tọa đàm
ảnh: P.A
Sáng nay (10.12), tọa đàm "Đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay: Thách thức và cơ hội" do Báo Pháp Luật TP.HCM, Mạng lưới các cơ sở đào tạo luật tại Việt Nam và Trường ĐH Văn Lang phối hợp tổ chức đã diễn ra tại TP.HCM. Tọa đàm có sự tham dự của lãnh đạo các trường ĐH đang đào tạo ngành luật, các chuyên gia trong lĩnh vực pháp lý-tư pháp, đại diện các hiệp hội, tổ chức nghề nghiệp và cộng đồng doanh nghiệp.
3 mô hình đào tạo luật tại Việt Nam
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, hiện cả nước có gần 100 cơ sở đào tạo luật. Gần đây, tại thảo luận tổ của Quốc hội về chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia, Phó thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình đã nêu những bất cập trong giáo dục ĐH, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu tăng cường quản lý, siết chặt giám sát và nâng cao chất lượng đào tạo đối với các lĩnh vực đặc thù, trong đó có ngành luật. Những vấn đề liên quan đến đào tạo cử nhân luật đang thu hút sự quan tâm lớn từ giới chuyên gia, nhà quản lý và các cơ sở đào tạo.
Chia sẻ tại tọa đàm, thạc sĩ Trần Cao Thành, Thư ký Ban điều hành Mạng lưới các cơ sở đào tạo luật tại Việt Nam, nêu 3 mô hình quản trị tổ chức đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay.
Một là, 7 trường đào tạo chủ yếu lĩnh vực luật bao gồm các trường thuộc Bộ GD-ĐT trực tiếp quản lý, trường thuộc bộ chuyên ngành hoặc ngành, trường thuộc ĐH quốc gia và ĐH vùng. Hai là, các khoa luật thuộc ĐH và trường ĐH đa ngành, với khoảng trên 80 cơ sở đào tạo. Ba là, có khoảng 10 bộ môn luật thuộc các khoa trong trường ĐH đa ngành. Như vậy hiện nay các trường đại học đa ngành đào tạo luật chiếm số lượng lớn trong khi các trường chuyên ngành có số lượng khiêm tốn.
Trong đó, riêng mô hình bộ môn luật thuộc trường ĐH đa ngành, thạc sĩ Thành cho rằng có một số hạn chế về đội ngũ giảng viên; khả năng tiếp cận nghiên cứu khoa học, tiếp cận thực hành nghề luật, hoạt động khởi nghiệp, rèn luyện kỹ năng của sinh viên… khó khăn hơn nếu không được quan tâm đúng mức.
Xét chung các mô hình đào tạo luật, thạc sĩ Thành nhận định bên cạnh những ưu điểm còn có không ít hạn chế. Trong đó ông nhấn mạnh tỷ lệ nghiên cứu khoa học đáp ứng nhưng có những cơ sở đào tạo nhiều lĩnh vực, có những lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế cao nhưng lĩnh vực luật lại rất thấp; chưa có điều kiện riêng về mở ngành và duy trì ngành, giảng viên cơ hữu mở ngành có thể không tham gia trực tiếp các hoạt động đào tạo hoặc phụ trách quá nhiều các học phần trong chương trình đào tạo...

PGS-TS Lê Vũ Nam, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐH Quốc gia TP.HCM), chia sẻ ý kiến về đào tạo luật hiện nay
ảnh: P.A
Còn nhiều vấn đề trong đào tạo luật
Thạc sĩ-luật sư Lê Quang Y, Phó chủ nhiệm phụ trách Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai, cho biết trong hơn hai thập niên qua, số lượng cơ sở đào tạo luật tăng mạnh với hơn 100 trường ĐH có khoa luật trên cả nước, đã đặt ra thách thức chuẩn hóa nội dung đào tạo và năng lực giảng viên. Hệ thống pháp luật Việt Nam liên tục sửa đổi, bổ sung, điều này đòi hỏi chương trình đào tạo phải thường xuyên cập nhật. Tuy nhiên, nhiều cơ sở đào tạo vẫn phụ thuộc vào chương trình khung cứng, thiếu linh hoạt dẫn đến tình trạng lạc hậu so với thực tiễn.
Nêu những điểm hạn chế của sinh viên luật, thạc sĩ-luật sư Lê Quang Y cho rằng nhiều sinh viên còn yếu trong tư duy pháp lý và chưa quen với việc phân tích tình huống thực tế. Bên cạnh đó, kỹ năng nghề nghiệp chưa được trang bị đầy đủ, khi các kỹ năng cốt lõi như tư vấn, đàm phán, tranh tụng, thu thập chứng cứ, soạn thảo hợp đồng chưa được chú trọng đúng mức. Khả năng sử dụng ngoại ngữ pháp lý còn hạn chế, trong khi các giao dịch thương mại, đầu tư và giải quyết tranh chấp quốc tế ngày càng nhiều. Kỹ năng công nghệ pháp lý còn yếu, gây khó khăn trong bối cảnh số hóa mạnh mẽ của dịch vụ pháp lý.
"Hơn nữa, thực tập nghề luật chưa thực chất. Nhiều sinh viên chỉ làm công việc hành chính, không được giao nhiệm vụ chuyên môn và không có luật sư hướng dẫn trực tiếp", thạc sĩ-luật sư Lê Quang Y nhìn nhận.
PGS-TS Bùi Anh Thủy, Trưởng khoa Luật Trường ĐH Văn Lang, cho rằng Việt Nam hiện đang trong một giai đoạn phát triển với những thay đổi hết sức mạnh mẽ, trong đó có yêu cầu phát triển mang tính đột phá về giáo dục, đặc biệt trong đào tạo nhân lực ngành luật. Thực tế cho thấy có khoảng cách không nhỏ giữa nhu cầu của thị trường lao động và năng lực của một bộ phận cử nhân của trường đại học được gọi là "chuyên luật" và trường ĐH đa ngành có đào tạo luật. Nguyên nhân có thể kể đến như chương trình đào tạo thiếu tính đồng bộ khi nặng về lý thuyết nhưng thiếu thực hành. Đội ngũ giảng viên chưa đồng đều về năng lực, nhiều cử nhân luật hạn chế về ngoại ngữ... Từ đó, dẫn đến tình trạng nhiều cử nhân luật ra trường nhưng thiếu kỹ năng và cả kiến thức chuyên môn, gặp khó khăn khi làm việc.

PGS-TS Bùi Anh Thủy, Trưởng khoa Luật Trường ĐH Văn Lang, nêu quan điểm tại tọa đàm
ảnh: P.A
Nên chọn giải pháp đa ngành hay chuyên ngành?
Để nâng cao chất lượng đào tạo luật, thạc sĩ-luật sư Lê Quang Y cho rằng cần xây dựng chương trình đào tạo dựa trên năng lực nghề luật sư; đổi mới phương pháp giảng dạy, triển khai phương pháp học dựa trên tình huống, án lệ, mô phỏng phiên tòa, mô phỏng tư vấn và học theo dự án. Bên cạnh đó, có thể đa dạng hóa đội ngũ giảng viên bằng cách mời luật sư, thẩm phán, kiểm sát viên tham gia giảng dạy. Đoàn Luật sư có thể tham gia xây dựng chuẩn đầu ra, tổ chức khóa bồi dưỡng kỹ năng, đánh giá thực tập và hỗ trợ đào tạo tiền hành nghề. Đưa học phần tiếng Anh pháp lý, pháp luật quốc tế, trọng tài thương mại... vào chương trình giảng dạy.
Nêu kiến nghị tại tọa đàm, PGS-TS Bùi Anh Thủy cho rằng mô hình ĐH đa ngành là phổ biến. Ý tưởng "gom" việc đào tạo cử nhân luật chỉ trong trường chuyên ngành luật là không phù hợp với giáo dục hiện đại, tự chủ ĐH, tự do học thuật. Đồng thời, điều này không phù hợp với mục tiêu xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời mà Việt Nam theo đuổi từ mấy thập kỷ nay và đi ngược xu thế phát triển giáo dục hiện đại. Cũng theo PGS Thủy, với nhu cầu nhân lực ngành luật đang thiếu hụt so với quy mô dân số (104 triệu dân) và tốc độ phát triển của nền kinh tế (hơn 900.000 doanh nghiệp và khoảng trên 5 triệu hộ kinh doanh), đào tạo luật trong trường ĐH đa ngành là xu hướng cần thiết.
Cùng quan điểm, PGS-TS Lê Minh Hùng, Trưởng khoa Luật và khoa học chính trị Trường ĐH Công nghiệp TP.HCM, nêu nhu cầu xã hội về luật rất lớn. Nếu "gom" việc đào tạo lại và đưa về một vài trường sẽ áp lực rất lớn cho các trường chuyên đào tạo luật. Điều này sẽ gây khó khăn cho rất nhiều bên liên quan.
Vấn đề quan trọng, theo PGS-TS Hùng, là làm sao để làm rõ triết lý đào tạo luật. Ông Hùng gợi mở: "Nên học khoa học trước rồi học luật sau hay học luật như một khoa học cử nhân muốn làm nghề thì học thêm về nghề như tòa án, luật sư, công chứng viên...? Hiện yêu cầu học hết các kiến thức trong trường luật nên đôi khi có những kiến thức vừa thừa, vừa thiếu''.
PGS-TS Lê Vũ Nam, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐH Quốc gia TP.HCM), cũng cho rằng thực tế chất lượng đào tạo luật hiện nay có khác nhau. Do đó, chủ trương kiểm soát và nâng cao chất lượng đào tạo luật là đúng đắn, việc nâng cao chất lượng đào tạo là tối cần thiết. Tuy nhiên PGS Nam cũng bày tỏ quan điểm đa ngành có thế mạnh của đa ngành, chuyên ngành có thế mạnh chuyên ngành, điều quan trọng nhất là chất lượng đào tạo.