Theo tư liệu cũ, danh từ riêng B'Lao được đổi tên Bảo Lộc ngày 19.8.1958, nhưng tên gọi xưa đã in sâu vào tiềm thức những người đã sống từ năm 1940. Đối với thế hệ 8X - 9X được sinh ra tại vùng đất chè, có những em học giỏi đỗ đạt cao đã ra nước ngoài học tập hay lập nghiệp nhưng vẫn nhớ những hàng chè xanh hiên nhà, bờ giậu và ly trà tươi nóng hổi in sâu trong tâm thức.
Là thầy giáo có hơn 30 năm dạy ngoại ngữ tại xứ trà vắt ngang 2 thế kỷ, mỗi lần đứng lớp, tôi thỉnh thoảng chia sẻ với các em: "Mình là người B'Lao, các em phải có kiến thức về lịch sử gia tộc và vùng miền, nhất là văn hóa chè của người bản địa. Có thể đến lúc trưởng thành các em còn nhớ hình ảnh quê hương dòng tộc, các thầy cô cũ một thời xa vắng".
Tết năm rồi, thạc sĩ Nguyễn Hùng Sơn - học trò cũ - ghé thăm, được tôi mời ly trà tươi hàng giậu, em nhìn trân trân ly nước trà xanh tỏa hương với đôi mắt sáng lên. Em tâm sự: "Con đã đi nhiều quốc gia, được thưởng thức nhiều thức uống khác nhau nhưng khi về nhà nhìn ly trà tươi mang hương vị quê mình, bỗng nhớ đến cánh đồng chè thời thơ ấu, nhớ hình ảnh nón lá của các mẹ các chị với chiếc gùi sau lưng nhấp nhô trong các đồi chè hay các sơn nữ K'Ho đi bộ cả hàng dài gùi củi về nhà dọc theo vườn chè, cà phê một thời đã in sâu vào ký ức. Rồi nhớ tiếng vọng của thầy hơn 20 năm trước... Tuy trà xanh là loại nước uống truyền thống, nhưng trà giống như con người, trà chỉ ngon khi có thời gian thẩm thấu mới có hậu. Con người cũng thế, muốn trà đàm đi vào tâm thức cũng phải trầm tư suy nghĩ câu chuyện để mang những điều tốt đẹp cho người đối ẩm. Người xưa nói rượu khà trà chắp. Chắp lưỡi là biểu hiện sự trân trọng hương vị của trà xanh và lòng biết ơn của người mời".
Mới đây, gặp thạc sĩ Trần Đình Long về nước thăm nhà, cả hai thầy trò pha bình trà xanh, trong khi chờ đợi, Long tâm sự: "Con rời B'Lao gần 10 năm, ở bên ấy vào mùa đông nhiệt độ xuống thấp có khi 0 độ, con lại nhớ giá như được uống ly trà xanh nóng với gừng và nghe tính minh triết về trà từ một người già như thầy cho ấm lòng người viễn xứ. Uống ly trà và nói chuyện văn hóa của người dân mới định cư và tồn tại vươn lên không còn gì thú bằng. Mấy năm trước, con đi xe máy bị té gãy tay nằm một mình trong phòng, sau khi bó bột con mới thấm thía sự cô đơn và nghĩ nhiều về tiền bạc - để tồn tại. Thầy cũng biết gia đình con không khá giả gì, là con cả nên con cố gắng sinh tồn để tự kiểm tra kỹ năng sinh tồn ở xứ người, con luôn nhớ lời thầy căn dặn trước khi xuất ngoại: 'Trong một gia đình mà không có người nào làm rạng danh gia tộc, đó là một gia đình bất hạnh'. Ở Đài Loan cũng có rất nhiều hoa dã quỳ như Lâm Đồng mình. Một loại hoa tự tồn tại đến mùa nở vàng rực đầy sức sống như một đời người chịu kham khổ mới có tương lai, hay như cái hậu của ly trà xanh khi mình chắp chắp. Giờ con đã có gia đình, vợ con cũng là thạc sĩ - dân gốc B'Lao - đó là điều đáng mừng thầy ơi! Nhớ quê mình là nhớ đồi chè, con đường dốc đến mùa thu hoa dã quỳ nở vàng, nơi đó có ông bà nội và ba mẹ con một thời cày xới...". Long cúi người ôm mặt nhớ về một thời xa vắng...
Với em Nguyễn Mỹ Hoa, tốt nghiệp MBA ở Mỹ rồi làm Deputy CEO của một công ty lớn ở Mỹ, thời thơ ấu gia đình em chỉ uống trà xanh cho đến khi định cư ở nước ngoài. Em chia sẻ: "Em rất thích câu của thầy ngày xưa là nhất thủy, nhì trà, tam pha, tứ ẩm, ngũ quần anh; trong đó quần anh là chính. Vì đây là những người hiểu biết có chung dòng chảy tâm thức, trong họ đều có những câu nói nhẹ nhàng, tình cảm sâu lắng, trân trọng dành cho nhau trong những lúc thịnh - suy của đời người. Trà xanh ngoài là thức uống dân dã còn lưu giữ những câu chuyện mang tính minh triết làm đẹp cho đời cho đối tác nhất là thời hội nhập, giao tiếp và đàm phán; con người cần 3 thứ ngoại: ngoại ngữ, ngoại hình và ngoại giao. Mỗi lần về nước đến thăm thầy bên ly trà xanh cũ với lời đề nghị hiền lành là cho chúng em một bình trà xanh tỏa hương, em hình tượng lại một thời cùng các bạn đạp xe qua những đồi chè xanh ngắt dưới chân núi Đại Bình nơi mang hồn quê và nỗi nhớ của người xa xứ...".