Từ ngày đầu thành lập Nha Y tế (1945), qua 80 năm, ngành y tế Việt Nam đã chuyển mình từ gian khó đến vươn tầm quốc tế, từ chiến trường đến phòng phẫu thuật hiện đại, từ chăm sóc cộng đồng đến y học công nghệ cao. Hành trình ấy có nhiều dấu mốc lịch sử và đang hướng đến một tương lai y tế toàn diện, hiện đại, công bằng.
Những năm đầu thành lập
Ngày 28.8.1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa quyết định thành lập Nha Y tế - tiền thân của Bộ Y tế do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đứng đầu. Sau này, ông cũng giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Y tế giai đoạn 1958 - 1968.
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào Toàn dân tập thể dục trong bài viết Sức khỏe và thể dục đăng trên báo Cứu Quốc ngày 27.3.1946, đặt nền móng cho sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đến năm 1958, Bác tiếp tục phát động phong trào vệ sinh yêu nước.

Việt Nam đã sản xuất được khoảng 10 loại vắc xin, nhập khẩu gần 20 loại để tiêm phòng bệnh cho nhân dân
ẢNH: P.L
Giai đoạn 1945 - 1975, ngành y tế Việt Nam vừa chăm sóc sức khỏe nhân dân vừa phục vụ 2 cuộc kháng chiến cứu nước. Trong những năm đầu kháng chiến, mạng lưới y tế từ T.Ư đến nông thôn tích cực tổ chức tiêm chủng toàn dân và triển khai phong trào phòng bệnh. Đến năm 1958, 2 dịch bệnh lớn là đậu mùa và tả đã bị đẩy lùi hiệu quả. Công nghệ sản xuất vắc xin Sabin được Liên Xô chuyển giao cho Việt Nam góp phần giảm tỷ lệ mắc bại liệt từ hơn 120/100.000 dân chỉ còn 3/100.000 dân từ sau năm 1962. Đến nay, Việt Nam sản xuất khoảng 10 loại vắc xin trong chương trình tiêm chủng mở rộng, giúp đẩy lùi nhiều dịch bệnh.
Theo GS Phạm Mạnh Hùng, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế, các phương châm của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, gồm: y tế phục vụ sản xuất và nhân dân; phòng bệnh là chính; chữa bệnh quan trọng; kết hợp Đông - Tây y; giáo dục vệ sinh cho nhân dân, đã đặt nền móng cho mạng lưới y tế cơ sở bao phủ toàn quốc ngày nay. Đến nay, hệ thống y tế công có 1.671 bệnh viện, hơn 11.400 trạm y tế phường xã, cùng hơn 53.000 cơ sở y tế tư nhân (trong đó có 402 bệnh viện), đảm bảo chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày một tốt hơn.
Ca mổ Việt - Đức đi vào lịch sử ngành y
GS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ, nhớ lại những ngày đầu sau năm 1975, ngành y tế tại TP.HCM gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn thuốc men, trang thiết bị nhưng vẫn nỗ lực chăm sóc sức khỏe nhân dân phía nam. Giai đoạn đó, GS Dương Quang Trung (nguyên Giám đốc Sở Y tế TP.HCM) bằng mối quan hệ của mình đã tìm kiếm sự giúp đỡ từ Pháp, bao gồm việc thành lập Viện Tim. GS Ngọc Phượng là giám đốc đầu tiên của Viện Tim và cũng là người khai sinh các chương trình cô đẻ thôn bản, thụ tinh trong ống nghiệm.

GS Nguyễn Thị Ngọc Phượng và Việt - Đức sau tách rời
ẢNH: T.L
Đến nay, GS Ngọc Phượng vẫn nhớ như in kỳ tích ngày 4.10.1988 khi các y bác sĩ Việt Nam thực hiện thành công ca mổ tách cặp song sinh Việt - Đức, đánh dấu một trong những mốc son rực rỡ nhất của y tế miền Nam nói riêng và Việt Nam nói chung sau năm 1975.
Nguyễn Việt và Nguyễn Đức, sinh ngày 25.2.1981 tại Kon Tum (nay thuộc Quảng Ngãi), là nạn nhân phơi nhiễm chất độc da cam. Theo GS Ngọc Phượng, đôi song sinh dính nhau vô cùng phức tạp, chỉ có 1 khung chậu. Kíp mổ tách song sinh ngày ấy quy tụ hơn 70 y bác sĩ hàng đầu TP.HCM, do cố GS Dương Quang Trung làm "nhạc trưởng" cùng các phẫu thuật viên nổi tiếng: GS Trần Đông A, cố GS Trần Thành Trai, cố GS Văn Tần...
Trong bối cảnh Việt Nam đang bị bao vây cấm vận, thiếu thốn trầm trọng về trang thiết bị, Hội Chữ thập đỏ Nhật Bản đã hỗ trợ thuốc men và thiết bị y tế cần thiết cho ca mổ. Sau 15 tiếng đồng hồ căng thẳng, cuộc phẫu thuật thành công vang dội, Việt và Đức được tách rời an toàn. Sau đó, Nguyễn Đức phục hồi tốt, trưởng thành, lập gia đình và có 2 con sinh đôi, còn Nguyễn Việt qua đời năm 2007.

Ca mổ tách song sinh Việt - Đức năm 1988 là một trong những mốc son rực rỡ nhất của nền y tế Việt Nam
ẢNH: T.L
Đây là ca tách song sinh thứ 7 trên thế giới và là ca đầu tiên của Việt Nam. Thành công này không chỉ là bước tiến vượt bậc của y học Việt Nam mà còn ghi danh trong sách kỷ lục Guinness năm 1991, với ca mổ độc đáo không chỉ về mức độ phức tạp mà cả chất lượng y đức và khả năng vượt khó của ngành y tế Việt Nam.
Theo GS Ngọc Phượng, bà ngoại đỡ đầu của Việt - Đức, thành công của ca mổ còn có sự đóng góp của những trí thức miền Nam đã ở lại Việt Nam sau năm 1975 để góp phần cho sự nghiệp chăm lo sức khỏe nhân dân. Đến nay, ngành y tế Việt Nam đã thực hiện thành công nhiều ca mổ tách dính song sinh. Mới nhất là ca tách song sinh Trúc Nhi - Diệu Nhi ngày 15.7.2020 tại Bệnh viện Nhi đồng Thành phố, có sự tham gia của GS Trần Đông A.
Ca ghép tạng đầu tiên
Ngày 4.6.1992, tại Bệnh viện Quân y 103 (Học viện Quân y), ca ghép thận đầu tiên của Việt Nam đã diễn ra với sự trợ giúp của chuyên gia nước ngoài. GS Trần Ngọc Sinh, nguyên Trưởng khoa Ngoại - tiết niệu Bệnh viện Chợ Rẫy, kể lại: Năm 1990, Bộ Y tế quyết định triển khai chương trình ghép thận do nhu cầu cứu chữa người suy thận rất lớn. Học viện Quân y được giao trọng trách này, cùng các thầy thuốc tên tuổi như GS Lê Thế Trung, GS Phạm Mạnh Hùng, GS Tôn Thất Bách... Bệnh viện Chợ Rẫy được mời tham gia từ đầu. GS Trần Ngọc Sinh lúc đó là bác sĩ chuyên khoa I, được cử vào kíp phẫu thuật viên phối hợp với Học viện Quân y. Từ cột mốc đầu tiên đến nay, Việt Nam đã ghép tạng thành công (tim, thận, gan… ) cho khoảng 10.000 người.

Y tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đảm bảo chăm sóc sức khỏe nhân dân hiệu quả, công bằng
ẢNH: ĐỘC LẬP
Bên cạnh đó, GS Trần Ngọc Sinh chia sẻ thêm kỹ thuật ngoại khoa mổ nội soi, mổ bằng robot của bác sĩ Việt Nam hiện đã sánh ngang tầm thế giới. Theo Bộ Y tế, từ năm 2003, các kỹ thuật chẩn đoán và điều trị ứng dụng công nghệ cao như nội soi, chụp cắt lớp vi tính (CT-Scanner), chụp cộng hưởng từ (MRI) được triển khai rộng rãi tại các BV tuyến T.Ư và tuyến tỉnh. Các kỹ thuật mổ vi phẫu, mổ nội soi, mổ robot, thông tim can thiệp, chụp mạch máu số hóa xóa nền (DSA), ứng dụng trí tuệ nhân tạo ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đến nay, có thể nói nền y tế Việt Nam đã bắt kịp các kỹ thuật tiên tiến trên thế giới về ngoại khoa, nội khoa, ghép tế bào gốc điều trị ung thư…
Năm 2025, ngành y tế Việt Nam lại lập thành tích mới khi Bệnh viện Nhi đồng 1 và Bệnh viện Từ Dũ thực hiện thành công thông tim can thiệp bào thai phức tạp. Kỹ thuật này mở ra thời kỳ y học bào thai, giúp chẩn đoán, can thiệp sớm bào thai ngay từ khi còn trong lòng mẹ.
Định hướng tương lai
Theo GS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, sau năm 1975, ngành y tế hết sức khó khăn, thiếu thốn trăm bề nhưng đã nỗ lực vươn lên và hiện đang trên hành trình vươn mình với nhiều thành tựu. Ngành y tế Việt Nam hiện không thiếu trang thiết bị hiện đại, tay nghề và năng lực của y bác sĩ rất giỏi nên không chỉ giữ bệnh nhân ở lại trong nước mà còn thu hút Việt kiều, người nước ngoài đến khám chữa bệnh.
Thời gian tới, theo GS Ngọc Phượng, ngành y tế cần quan tâm 2 vấn đề. Thứ nhất, tiếp tục bắt kịp thành tựu khoa học y tế trên thế giới; đẩy mạnh nghiên cứu để có những kỹ thuật y học vươn tầm khu vực và thế giới. Thứ hai, quan tâm hơn nữa về đầu tư, phát triển y tế cơ sở. Vì điều trị tốt chỉ là phần ngọn, còn phát hiện bệnh sớm ngay từ đầu ở cơ sở và gửi lên tuyến trên để điều trị sớm mới là điều quan trọng.
Tầm nhìn tương lai
Theo Bộ Y tế, mục tiêu đến 2035, tăng chiều cao trung bình của thanh niên trên 18 tuổi thêm tối thiểu 1,5 cm (hiện nam đạt 168,1 cm, nữ đạt 156,2 cm); tuổi thọ trung bình người Việt Nam đạt 75,5, trong đó số năm sống khỏe mạnh đạt 68. Tỷ lệ tiêm chủng vắc xin trong Chương trình tiêm chủng mở rộng đạt trên 95%.
Phấn đấu đến năm 2035, người dân được bảo hiểm y tế chi trả 100% chi phí khám chữa bệnh ở mức cơ bản trong phạm vi được hưởng.
Phấn đấu đến năm 2045, người dân có tuổi thọ trung bình đạt trên 80, trong đó số năm sống khỏe mạnh tăng lên 71; tầm vóc, thể lực và chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam tương đương các quốc gia có cùng mức phát triển. Hệ thống y tế hiện đại, công bằng, hiệu quả, lấy phòng bệnh làm ưu tiên hàng đầu, đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao và đa dạng của nhân dân.