Sáng 10.12, với đa số đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua luật Quản lý thuế sửa đổi. Đáng chú ý, luật bổ sung đối tượng bị hoãn xuất cảnh "là chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp" nếu doanh nghiệp chậm nộp thuế.
Chính phủ quy định số tiền thuế nợ và thời gian nợ theo ngưỡng để áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh.

Quốc hội biểu quyết thông qua luật Quản lý thuế sửa đổi
ẢNH: GIA HÂN
Trước đó, góp ý cho dự thảo luật, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đề nghị bỏ quy định tạm hoãn xuất cảnh đối với chủ sở hữu hưởng lợi nếu doanh nghiệp chưa hoàn thành nghĩa vụ thuế.
Theo đại diện VCCI, quy định này là quá rộng và không hợp lý, vì theo luật Doanh nghiệp chỉ cần sở hữu từ 25% vốn trở lên đã được gọi là chủ sở hữu hưởng lợi mà không cần trực tiếp điều hành doanh nghiệp.
Báo cáo tiếp thu, giải trình, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, quy định về tạm hoãn xuất cảnh đối với "người đại diện theo pháp luật" kế thừa quy định tại luật Quản lý thuế hiện hành, phát huy được tác dụng trong việc thu hồi nợ thuế.
Tuy nhiên, ông Thắng cũng cho hay, thực tế đã có người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chỉ là người được thuê để né tránh việc bị tạm hoãn xuất cảnh của chủ doanh nghiệp. Do đó, Chính phủ quy định bổ sung đối tượng "là chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp" để khắc phục thực trạng này.
Bộ trưởng Bộ Tài chính lý giải, trong pháp luật về doanh nghiệp đã quy định rõ tiêu chí xác định chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp và việc doanh nghiệp phải thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp.
Theo đó, chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp là cá nhân thực sự đứng sau chi phối doanh nghiệp, có quyền sở hữu trên thực tế vốn điều lệ hoặc có quyền chi phối đối với doanh nghiệp dù không nhất thiết phải đứng tên trên giấy tờ đăng ký kinh doanh.
Việc áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với cá nhân là chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp sẽ được quy định cụ thể tại nghị định nhằm đồng bộ với pháp luật về doanh nghiệp, đảm bảo tính minh bạch.