Tập trung chất lượng tăng trưởng để đảm bảo bền vững
VN đã bước vào nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao với ước tính GDP bình quân đầu người năm 2025 đạt 5.000 USD. Để đạt mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045 thì GDP bình quân đầu người phải trên 12.535 USD/năm theo công bố của Ngân hàng Thế giới về tiêu chí phân loại các nước theo thu nhập bình quân đầu người.

Phát triển kinh tế dựa trên nền tảng KH-CN, đổi mới sáng tạo sẽ đưa VN đạt mục tiêu thành quốc gia có thu nhập cao
ẢNH: ĐÀO NGỌC THẠCH
PGS-TS Đỗ Phú Trần Tình, Viện trưởng Viện Phát triển chính sách ĐHQG TP.HCM (Trường ĐH Kinh tế - Luật), phân tích: nền kinh tế VN trong giai đoạn 2021-2025 đã duy trì mức tăng trưởng khá, bình quân khoảng 6,3%/năm, cùng với đó là sự cải thiện đáng kể về quy mô và chất lượng tăng trưởng. Quy mô GDP năm 2025 dự kiến vượt 510 tỉ USD, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 USD. Cùng với đó, tốc độ tăng dân số giảm xuống mức 0,99%/năm (điều tra dân số giữa kỳ 2024) tạo điều kiện thuận lợi để GDP/người tăng nhanh hơn trong dài hạn. Theo mô hình mô phỏng kinh tế cho thấy với tốc độ tăng dân số khoảng 0,99%/năm, trường hợp tăng trưởng GDP giai đoạn 2026-2030 đạt xấp xỉ 10% và giai đoạn 2031-2045 duy trì quanh mức 8% vẫn cho kết quả GDP/người năm 2045 đạt khoảng 22.991 USD, vượt qua ngưỡng quốc gia thu nhập cao. Trong kịch bản tăng trưởng tích cực hơn, nếu duy trì 10%/năm cho cả giai đoạn 2026-2045, GDP bình quân đầu người có thể đạt hơn 27.000 USD. Từ các kết quả trên cho thấy để đạt mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045, VN không cần thiết phải theo đuổi quỹ đạo tăng trưởng liên tục ở mức hai con số trong 2 thập niên mà quan trọng hơn phải tập trung ở chất lượng tăng trưởng để đảm bảo sự bền vững.
PGS-TS Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế và chính trị thế giới, chỉ rõ: Để trở thành nước phát triển vào 2045 thì GDP bình quân đầu người của VN phải đạt 16.000 - 17.000 USD/năm, gấp hơn 3 lần hiện nay. Muốn như vậy, tăng trưởng kinh tế phải đạt ít nhất 8 - 9%/năm liên tiếp từ nay đến lúc đó. Trong lịch sử phát triển của các nước trên thế giới, đến nay mới chỉ có Trung Quốc đạt tăng trưởng 10%/năm liên tiếp trong vòng 20 năm để tạo ra bước nhảy vọt về kinh tế. Hàn Quốc trong vòng 25 năm giữ tăng trưởng 7 - 8%/năm đã đưa đất nước phát triển mạnh, người dân có thu nhập cao 16.000 USD/năm. Mặt khác, thế giới nói chung cũng như VN nói riêng đang ở trong điều kiện kinh tế hết sức khó khăn. Xung đột giữa các quốc gia căng thẳng, chính sách thuế quan biến động khó lường, trong khi biến đổi khí hậu tàn phá ngày càng khủng khiếp và tài nguyên thiên nhiên đang cạn kiệt dần. Dự báo trong vòng 10 - 15 năm tới, chúng ta sẽ phải đối diện với rất nhiều thách thức đến từ bên ngoài. Từ những phân tích trên, vị chuyên gia kinh tế này nhìn nhận VN đang đặt ra mục tiêu tăng trưởng rất cao, muốn đạt được cần nỗ lực vượt bậc.

Đầu tư tích cực vào hạ tầng sẽ là động lực mạnh để chúng ta có khả năng đạt tăng trưởng 2 con số
ẢNH: NHẬT THỊNH
Đột phá bằng cách nào?
Để đạt được mục tiêu hướng đến quốc gia có thu nhập cao, theo PGS-TS Đỗ Phú Trần Tình, VN cần đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế dựa trên nền tảng KH-CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Trong bối cảnh hiện nay, yếu tố quyết định tốc độ và chất lượng tăng trưởng không còn là vốn và lao động rẻ mà là KH-CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Ba yếu tố này trực tiếp nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp (TFP), dịch chuyển cơ cấu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vào, đồng thời giảm phát thải và rủi ro tài nguyên. Ở cấp quốc gia, một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo năng động giúp VN nâng cấp chuỗi giá trị, từ gia công sang thiết kế - sở hữu trí tuệ, tạo dư địa tăng trưởng dài hạn, giúp quốc gia vượt qua bẫy thu nhập trung bình.
"Trước mắt VN cần triển khai đồng bộ các giải pháp trong Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KH-CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Chẳng hạn nhanh chóng sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các quy định pháp luật về KH-CN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tài sản công, sở hữu trí tuệ, thuế… nhằm tháo gỡ các rào cản, giải phóng các nguồn lực. Song song đó, Chính phủ cần tiếp tục khơi thông có hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế mà đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân", ông Tình gợi ý. Bởi theo ông Tình, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đã nâng tầm vai trò của kinh tế tư nhân, nhưng cần nhanh chóng có những giải pháp đột phá mang tính chiến lược và khả thi để thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển mạnh hơn; đồng thời tiếp tục khai thác tiềm năng về nắm bắt cơ hội mới thông qua hội nhập quốc tế; khai thác có hiệu quả mạng lưới hiệp định thương mại thế hệ mới, củng cố vai trò mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Cuối cùng, theo ông Tình, không kém quan trọng là triển khai có hiệu quả Nghị quyết 66 của Bộ Chính trị về đổi mới toàn diện công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Đây được xem là "bệ đỡ thể chế" cho tăng trưởng nhanh và bền vững.
"Nếu KH-CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được xem là động cơ, thì Nghị quyết 66 là bộ vi điều khiển đảm bảo luật lệ rõ ràng, thực thi nhất quán, chi phí tuân thủ thấp, giảm rủi ro pháp lý, khuyến khích đổi mới, giải phóng nguồn lực xã hội, từ đó nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp - yếu tố cơ bản của tăng trưởng nhanh và bền vững", PGS-TS Đỗ Phú Trần Tình chia sẻ thêm.
Đánh giá VN đang đứng trước cơ hội lịch sử, chưa từng có để bứt tốc, PGS-TS Võ Đại Lược dẫn chứng, chúng ta là đối tác chiến lược toàn diện của nhiều nước phát triển. VN có một vị thế mà không phải quốc gia nào cũng có nên nhận được sự quan tâm của nhiều dòng vốn đầu tư quốc tế cũng như hàng hóa tiếp cận nhiều thị trường toàn cầu hơn. Bên cạnh đó, dư địa để VN phát triển theo chiều rộng còn rất nhiều. Kết cấu hạ tầng từ đường sắt đến sân bay đang bước vào thời kỳ nở rộ. Đầu tư tích cực vào hạ tầng được tính toán kỹ lưỡng về hiệu quả sẽ là động lực mạnh để chúng ta có khả năng đạt tăng trưởng 2 con số. "Hiện lãnh đạo cao nhất của VN đã thể hiện quyết tâm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cụ thể hóa bằng hàng loạt nghị quyết quan trọng mang tính chất xoay chuyển cục diện. Đây là cơ sở, động lực chính để biến cơ hội, tiềm năng của VN thành hiện thực", PGS-TS Võ Đại Lược nhận định.
Nút thắt lớn nhất là thể chế vẫn còn hiện diện
Thời gian qua, Tổng Bí thư Tô Lâm cùng Chính phủ, Quốc hội đã thể hiện rõ quan điểm gỡ điểm nghẽn thể chế, cải cách toàn diện, song mới chỉ bắt đầu ở bước xem xét sửa luật. Hệ thống luật của VN thì theo kiểu luật ống, trên rộng nhưng dưới cứ thắt dần. Nút thắt thứ hai là cơ chế trọng dụng nhân tài. Một đất nước muốn phát triển thì phải thu hút bằng được nhân tài trong và ngoài nước, kéo những người xuất sắc về cống hiến cho cơ quan công quyền, quản lý nhà nước. Vì vậy cần phải tháo gỡ tất cả "nút thắt" nói trên để kinh tế bứt phá mạnh hơn trong giai đoạn tới.
PGS-TS Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế và chính trị thế giới