Kiến tạo các đơn vị hành chính đủ tầm để bứt phá

Ngược lại, những tỉnh nhỏ, thiếu kết nối và khó quy hoạch vùng thường tụt lại phía sau. Vì vậy, các tỉnh thành sau khi sáp nhập có quy mô lớn sẽ mở ra các cơ hội phát triển KT-XH nhờ tích tụ nguồn lực lớn, thuận lợi triển khai các dự án hạ tầng quy mô lớn, quản lý tập trung...

Quy mô lớn để điều phối dòng vốn, lao động, công nghệ trên toàn vùng

TS Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, nhìn nhận: VN đang bước vào giai đoạn phát triển theo chiều sâu - tăng trưởng không thể tiếp tục dựa vào khai thác tài nguyên hay lao động giá rẻ, mà phải dựa vào năng suất, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và liên kết vùng hiệu quả. Những mục tiêu đó đòi hỏi các đơn vị hành chính phải có quy mô đủ lớn để quy hoạch dài hạn, hấp thụ đầu tư chiến lược, tổ chức không gian phát triển và điều phối các dòng vốn, dòng lao động, dòng công nghệ trên phạm vi vùng. Việc sáp nhập các tỉnh không chỉ là một cuộc cải cách hành chính đơn thuần, mà còn là đòn bẩy mạnh mẽ để kiến tạo các đơn vị hành chính có quy mô đủ lớn, đủ tầm phát triển và kết nối.

Kiến tạo các đơn vị hành chính đủ tầm để bứt phá- Ảnh 1.

Nhiều tỉnh, thành mới sau sáp nhập hình thành hệ sinh thái kinh tế đa ngành (trong ảnh: một góc TP.Quy Nhơn, Bình Định)

ẢNH: NGUYỄN DŨNG

Sau khi sáp nhập các tỉnh, bộ máy hành chính có sự thay đổi lớn. Để ổn định tư tưởng, tạo động lực cống hiến và giữ gìn tính chuyên nghiệp, cần hỗ trợ tài chính đặc biệt trong giai đoạn chuyển tiếp như phụ cấp nhà ở, đi lại, sinh hoạt cho cán bộ phải chuyển công tác giữa các huyện, vùng sâu, vùng xa trong tỉnh mới. Việc sắp xếp lại vị trí việc làm cần công khai, minh bạch, dựa trên năng lực, ưu tiên cán bộ có năng lực, kinh nghiệm và sẵn sàng cống hiến. Đồng thời có chính sách hỗ trợ đào tạo lại, bồi dưỡng lại nhằm nâng cao năng lực cán bộ, viên chức gắn với yêu cầu vị trí công việc mới trong bối cảnh sau sáp nhập các địa phương. Nếu có chính sách đúng đắn, nhân văn và kịp thời, đội ngũ cán bộ sẽ trở thành nòng cốt để triển khai thành công chiến lược phát triển tỉnh mới.

PGS-TS Đỗ Phú Trần Tình, Viện trưởng Viện Phát triển chính sách ĐHQG-HCM

Đây cũng là điều kiện cần để hình thành các cực tăng trưởng mới trên bản đồ phát triển vùng. Các địa phương mới sẽ tạo ra không gian phát triển liên hoàn giữa đô thị trung tâm, vùng ven biển, đồng bằng và miền núi, từ đó kết nối chuỗi giá trị sản xuất - logistics - tiêu dùng - xuất khẩu một cách trọn vẹn. Đơn cử, Cần Thơ (cũ) chỉ có quy mô GRDP khoảng 140.000 tỉ đồng (2023), nhưng khi gộp thêm 2 tỉnh liền kề, tổng GRDP có thể vượt 250.000 tỉ đồng và dân số hơn 3,5 triệu người - tương đương một tỉnh công nghiệp phát triển tầm trung tại Thái Lan.

Theo TS Nguyễn Sĩ Dũng, các tỉnh quy mô lớn sẽ có năng lực tổ chức quy hoạch bài bản, triển khai chính sách kinh tế hiệu quả hơn và tăng sức cạnh tranh trong thu hút đầu tư. Chỉ số PCI năm 2024 cho thấy, các tỉnh có khả năng điều phối liên vùng như Quảng Ninh, Hải Phòng, Long An luôn nằm trong nhóm dẫn đầu. Ngược lại, những tỉnh nhỏ, thiếu kết nối và khó quy hoạch vùng thường tụt lại phía sau. Tỉnh lớn không chỉ thuận lợi trong đàm phán với các nhà đầu tư chiến lược mà còn hấp dẫn hơn với các tập đoàn xuyên quốc gia vốn yêu cầu quy mô thị trường và hạ tầng đủ tầm.

Bên cạnh đó, các tỉnh lớn còn có lợi thế vượt trội trong việc tổ chức không gian phát triển vùng và điều phối hạ tầng liên tỉnh. Thời gian qua, việc kết nối giao thông giữa TP.HCM và Bình Dương - dù chỉ cách 40 km - mà vẫn mất gần 2 giờ di chuyển vào giờ cao điểm do không có quy hoạch hạ tầng liên thông hiệu quả. Sự phối hợp giữa các tỉnh trong quy hoạch giao thông, logistics hay thoát nước đô thị còn lỏng lẻo và bị cản trở bởi ranh giới hành chính. Khi sáp nhập, nhiều dự án hạ tầng sẽ không còn bị "cắt khúc" bởi địa giới, từ đó giúp nâng cao năng lực điều hành, đồng bộ hóa quy hoạch và khai thác hiệu quả hơn các nguồn lực.

Ngoài ra, sáp nhập tạo điều kiện để sử dụng ngân sách hiệu quả hơn và tăng năng suất đầu tư công. Một nghiên cứu đăng trên SAGE Journals năm 2021 cho thấy, mỗi 1% tăng chi đầu tư công, nếu được phân bổ hợp lý, có thể góp phần nâng GRDP địa phương thêm khoảng 0,196%. Việc duy trì quá nhiều tỉnh nhỏ đang khiến ngân sách quốc gia bị phân tán, đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp. Khi hợp nhất, các dự án sẽ được chọn lọc kỹ hơn, nguồn vốn được tập trung và quản lý tốt hơn, từ đó nâng cao hiệu quả chi tiêu công. Chưa kể, việc giảm từ 63 xuống còn 34 tỉnh thành sẽ kéo theo một sự tái cấu trúc toàn diện về bộ máy hành chính, giúp tinh gọn đầu mối và tiết kiệm chi phí vận hành đáng kể. Trước đây, mỗi tỉnh có trung bình 20 - 22 sở, ngành cấp tỉnh. Ước tính việc tinh giản có thể giúp tiết kiệm đến cả nghìn tỉ đồng mỗi năm từ lương, chi thường xuyên và đầu tư trụ sở. Những nguồn lực tiết kiệm được có thể tái đầu tư cho hạ tầng, giáo dục, y tế và chuyển đổi số - những lĩnh vực có sức lan tỏa lớn đến năng suất xã hội.

Hình thành hệ sinh thái kinh tế biển đa ngành

PGS-TS Đỗ Phú Trần Tình, Viện trưởng Viện Phát triển chính sách ĐHQG-HCM (thuộc Trường ĐH Kinh tế - Luật) kỳ vọng, 34 tỉnh thành mới chuẩn bị đi vào hoạt động sẽ mở ra các cơ hội phát triển KT-XH cho các địa phương mới nhờ tăng cường hiệu quả đầu tư công dựa trên sự tích tụ nguồn lực lớn, thuận lợi triển khai các dự án hạ tầng quy mô lớn, quản lý tập trung và tránh chồng chéo trong đầu tư hạ tầng kỹ thuật - xã hội. Đồng thời, quy mô lớn sẽ tăng sức hấp dẫn với nhà đầu tư chiến lược nhờ thị trường lớn, nguồn lao động đa dạng, tài nguyên dồi dào. Ngoài ra, việc phân chia địa giới hành chính các tỉnh thành mới đã định hình chiến lược phát triển kinh tế vùng rõ nét hơn. Đặc biệt, trong số đó có 21 tỉnh thành có biển sẽ tạo điều kiện cho hình thành hệ sinh thái kinh tế biển đa ngành, từ cảng biển, logistics, công nghiệp, du lịch, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản đến năng lượng gió ngoài khơi, giúp kinh tế biển trở thành một trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững quốc gia.

Kiến tạo các đơn vị hành chính đủ tầm để bứt phá- Ảnh 2.

Các địa phương sau sáp nhập mở ra không gian phát triển liên hoàn (trong ảnh: một góc TP.Đà Lạt, Lâm Đồng)

ẢNH: ĐỘC LẬP

"Việc sáp nhập các địa phương, đặc biệt giữa các tỉnh không giáp biển với các tỉnh có biển giúp tăng khả năng kết nối thương mại quốc tế qua cảng biển, giảm chi phí logistics, gắn kết quy hoạch của địa phương với quy hoạch vùng ven biển đồng bộ hơn. Đồng thời, địa phương vừa có núi vừa có biển sẽ giúp định hình và thúc đẩy phát triển các chuỗi giá trị: Nông sản - công nghiệp chế biến - xuất khẩu; công nghiệp - hậu cần - cảng biển; logistics - nông nghiệp - du lịch… Ngoài ra, nhờ có được nguồn tài nguyên phong phú: biển - rừng - khoáng sản - đất… sẽ giúp tăng khả năng thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào địa phương, tạo điều kiện cho các đặc khu kinh tế biển, khu công nghiệp ven biển phát triển. Khi các nguồn lực đầu tư vào các địa phương lớn hơn sẽ góp phần triển khai các chương trình phát triển xanh ven biển, bảo vệ rừng ngập mặn, kiểm soát ô nhiễm biển hiệu quả hơn", PGS-TS Đỗ Phú Trần Tình phân tích.

Đồng quan điểm, TS Nguyễn Sĩ Dũng cũng đánh giá, ngoài những lợi ích trực tiếp về kinh tế có thể chứng minh ngay qua số liệu như trên, việc sáp nhập tỉnh còn là công cụ hữu hiệu để thúc đẩy phát triển cân bằng giữa các vùng. Việc kết nối các tỉnh miền núi như Kon Tum, Gia Lai với các tỉnh ven biển như Quảng Ngãi, Bình Định sẽ mở ra cơ hội phát triển các tuyến logistics xuyên vùng, các vành đai du lịch xanh - văn hóa - sinh thái, cũng như công nghiệp chế biến nông - lâm sản có giá trị gia tăng cao. Điều này không chỉ tăng cường liên kết vùng, mà còn thu hẹp dần khoảng cách phát triển giữa các khu vực trong cả nước. Đây là một trong những mục tiêu cốt lõi của chính sách phát triển bền vững và bao trùm.

Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao