Đàn bò sữa giậm chân tại chỗ
20 năm về trước, TP.HCM từng là thủ phủ nuôi bò sữa với tổng đàn có lúc lên đến 100.000 con, chiếm 60% đàn bò sữa cả nước. Nhớ lại giai đoạn hoàng kim đó, một cán bộ lâu năm trong ngành nông nghiệp TP.HCM kể: Năm 1986, đàn bò sữa thuộc quốc doanh chiếm 25,4% tổng đàn bò sữa TP.HCM; đến năm 1990 chỉ còn chiếm 15,5% và giảm dần sau đó; đến năm 1999 thì hầu hết đều là chăn nuôi nông hộ. Từ năm 2000, nhiều trang trại bò sữa với quy mô trên 100 con đã được hình thành ở khu vực vùng ven TP.HCM như trang trại của ông Vũ Phương Bình, trang trại Sao Mai, trang trại Tân Phát Thịnh, trại bò giống cao sản Delta…

Nguồn sữa tươi trong nước chỉ mới đáp ứng 40% nhu cầu tiêu thụ nội địa
ẢNH: VIÊN AN
Thời gian sau đó, đàn bò sữa lớn nhất cả nước đã dần biến mất. Vấn đề ô nhiễm môi trường, tốc độ đô thị hóa đã khiến đàn bò sữa mất dần chỗ đứng, nhưng quan trọng hơn hết là sữa tươi làm ra gặp khó ở khâu tiêu thụ: Tiêu chuẩn thu mua sữa khắt khe hơn, giá bán trồi sụt và nhiều lúc nông dân còn phải đổ bỏ. Công ty Bò sữa TP.HCM, từng một thời được biết đến là doanh nghiệp đầu tiên của TP.HCM chăn nuôi bò sữa quy mô lớn với quy trình khép kín, cung ứng bò sữa giống cho các hộ chăn nuôi ngoại thành và cả nước, đến nay đã phải chuyển đổi dần sang nuôi bò thịt, và nguồn thu lớn nhất hiện nay của doanh nghiệp bò sữa này lại đến từ… cây ăn trái.
Theo Hội Chăn nuôi VN, đàn bò sữa trong nước sau một giai đoạn tăng trưởng mạnh ở mức 2 con số 15,4%/năm thì đến giai đoạn 2010 - 2015 đã giảm xuống rất nhanh. Tốc độ tăng trưởng về sản lượng sữa tươi trong nước cũng giảm nhanh, từ 17,7%/năm giai đoạn 2010 - 2015, xuống còn 6,7%/năm giai đoạn 2015 - 2020 và chỉ còn 3,3%/năm giai đoạn 2020 - 2024. Không chỉ TP.HCM, ở các địa phương nổi tiếng khác như Ba Vì, Mộc Châu, đàn bò sữa cũng giảm dần.
Trái ngược với diễn biến suy giảm này, nguồn sữa bột nhập khẩu lại tăng lên nhanh chóng, thị trường sữa nội địa gần như phụ thuộc nguyên liệu sữa bột nhập khẩu, sau đó hòa tan để pha lại (sữa hoàn nguyên). Trong đó, đáng lưu ý năm 2009, tỷ lệ sữa nước chế biến từ sữa tươi chỉ có 8%, có đến 92% chế biến từ sữa bột hoàn nguyên. Số liệu thống kê từ Cục Hải quan cũng cho thấy trong 7 tháng năm 2025, đối với sữa và các sản phẩm từ sữa, VN đã nhập khẩu hơn 858 triệu USD, tăng 34,9% so với cùng kỳ.
VN có thế mạnh nuôi bò sữa hay không?
Chăn nuôi bò sữa nông hộ giảm mạnh, nhưng trên thực tế, đàn bò sữa cả nước vẫn được đầu tư và phát triển quy mô trang trại công nghiệp ở các doanh nghiệp lớn. Đơn cử như Công ty Vinamilk hiện đầu tư đến 15 trang trại bò sữa (gồm 14 trang trại trong nước và 1 trang trại tại Lào), với tổng đàn bò đang quản lý lên đến 130.000 con, nguồn cung sữa tươi nguyên liệu ổn định hằng năm đạt khoảng 400.000 tấn. Công ty Nutifood cũng đang có vùng nguyên liệu 1.000 ha hợp tác với 850 hộ dân tại Mang Yang (Gia Lai), tổng sản lượng sữa năm 2024 đạt khoảng 63.787 tấn, tăng 11.050 tấn so với năm 2023 (52.737 tấn), tương đương 20,95%.
Mặc dù vậy, đàn bò sữa trong nước cũng chỉ mới đáp ứng được 40% nhu cầu tiêu thụ. Với tốc độ tăng trưởng ngày càng chậm lại, các chuyên gia trong ngành chăn nuôi dự báo mục tiêu đề ra là 2,6 - 2,8 triệu tấn sữa tươi, đảm bảo 25 - 26 kg sữa/người; cùng với đó, chủ trương tự túc 60% nguyên liệu cho ngành công nghiệp sữa đến năm 2030 khó thành hiện thực.
Lý giải nguyên nhân cho việc suy giảm này, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi VN, phân tích: Thị trường sữa và các sản phẩm từ sữa phát triển quá nóng, xuất hiện quá nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh và thương hiệu sữa, gây nhiễu loạn thị trường sữa, không chỉ ảnh hưởng đến người tiêu dùng mà còn là áp lực đến cả các doanh nghiệp, thương hiệu lớn trong việc duy trì giá cả và nguồn nguyên liệu trong nước.
Theo lãnh đạo Hội Chăn nuôi VN, chính vì buông lỏng quản lý nên nhiều năm qua các doanh nghiệp sữa trong nước khó cạnh tranh được với sữa nhập khẩu, thậm chí người ta có thể sản xuất sữa giả với hàng loạt nhãn hiệu đủ mọi thành phần, gây nhiễu loạn thị trường và ảnh hưởng tiêu cực đến các dòng sản phẩm chất lượng.
Ông Nguyễn Xuân Dương nhận định: "Với điều kiện tự nhiên, lao động và thị trường, nước ta hoàn toàn có thể nâng quy mô đàn bò sữa lên gấp 3 lần hiện nay, đạt 1,3 - 1,5 triệu con vào năm 2030 và sản lượng sữa tươi đạt 4,3 - 5 triệu tấn, đủ đáp ứng 60% nhu cầu chế biến sau năm 2030 và hướng tới 100 kg sữa/người/năm vào năm 2045".
PGS-TS Trần Quang Trung, Chủ tịch Hiệp hội Sữa VN, phân tích: "Thống kê nhu cầu tiêu thụ sữa bình quân đầu người ở VN hiện nay vẫn còn rất thấp, chỉ khoảng 26 - 28 lít/người/năm, trong khi Thái Lan là 35 lít/người/năm, Singapore là 45 lít/người/năm và châu Âu từ 80 - 100 lít/người/năm. Với mức thu nhập ngày càng tăng, mạng lưới tiêu thụ mở rộng với hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện lợi ngày càng phổ biến, tiềm năng gia tăng nhu cầu tiêu thụ sữa tươi còn rất lớn. Giá thành sản xuất sữa tươi trong nước hiện nay vẫn cao hơn giá sữa nguyên liệu ngoại nhập, nhưng nếu Nhà nước có chính sách khuyến khích để chăn nuôi bò sữa phát triển, cắt giảm các chi phí không cần thiết (khiến giá thành sữa, thực phẩm lên cao) thì ngành sữa nội địa vẫn cạnh tranh được".
"Đặc biệt, hiện nay người dân vẫn còn tư duy sữa chỉ dành cho trẻ em, người già, người bệnh, điều này không đúng. Cần phải có sự thay đổi mạnh mẽ về quan niệm để đưa sữa tươi thành thực phẩm thiết yếu nhằm tăng sản lượng tiêu thụ, từ đó đẩy mạnh nhu cầu sử dụng, và giúp cho ngành chăn nuôi bò sữa phát triển bền vững", ông Nguyễn Xuân Dương nhấn mạnh.
VN có thế mạnh để cạnh tranh lĩnh vực sữa tươi không? Đại diện nhiều doanh nghiệp đều cho rằng hoàn toàn có thể, quan trọng nhất là thủ tục pháp lý, hệ thống văn bản pháp luật cần phải đơn giản hóa thủ tục đầu tư, thủ tục đăng ký sản phẩm để giúp doanh nghiệp thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hầu hết các doanh nghiệp đều đề xuất Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và đất đai để mở rộng vùng nguyên liệu, phát triển sản xuất sản phẩm chất lượng cao và nâng cao tỷ lệ nội địa hóa để phát triển đàn bò sữa, chủ động nguồn cung nguyên liệu.
Theo dự thảo Quyết định chiến lược phát triển ngành sữa giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đang được triển khai góp ý, Chính phủ sẽ tăng cường kiểm tra chất lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường trong nước để chống hàng lậu, hàng kém chất lượng; quản lý về nội dung ghi nhãn mác, quảng cáo các sản phẩm sữa, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong ngành. Cuộc vận động "Người VN ưu tiên dùng hàng VN" cũng sẽ được phổ biến một cách hiệu quả để sản phẩm của ngành sữa có thị trường nội địa bền vững.