Con đường của lương thực và mạng sống

CHÀNG TRAI GÁNH GẠO VÀO ĐIỆN BIÊN PHỦ

Bước sang tuổi bách niên, giọng kể của ông Trần Đình Tư (ở xã Quế Long, H.Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam cũ, nay là xã Quế Sơn, TP.Đà Nẵng) vẫn vẹn nguyên sự chất phác của người lính. Ánh mắt ông lấp lánh niềm tự hào khi nhắc về những ngày tháng "tất cả cho tiền tuyến".

Tham gia thiếu sinh quân từ năm 16 tuổi, bước ngoặt lớn nhất trong đời ông Tư gắn liền với con đường tiếp vận huyền thoại sang Lào từ năm 1946. Khi chiến trường Điện Biên Phủ ngày càng nóng lên, ông Tư cùng đồng đội thuộc Đại đội 11, Tiểu đoàn 12 đảm nhận nhiệm vụ vô cùng quan trọng: vận chuyển lương thực từ Quảng Đà đưa sang tập kết tại Lào, rồi chuyển tiếp về Điện Biên Phủ. Đó là hành trình gian khổ, vượt qua hàng ngàn cây số đường rừng núi hiểm trở.

Con đường của lương thực và mạng sống- Ảnh 1.

Ông Trần Đình Tư được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng nhất

ẢNH: MẠNH CƯỜNG

"Con đường vận chuyển lương thực sang Lào những ngày đầu gặp muôn vàn khó khăn. Không phải là những đoàn xe cơ giới rầm rộ, mà là những nhóm người gánh gạo, mỗi nhóm chỉ từ 10 - 15 người, phải đi theo lộ trình và khung giờ nghiêm ngặt để tránh sự dò xét của địch. Tới mỗi trạm dừng chân, mọi người phải báo cáo bằng tín hiệu để kiểm soát số lượng, đề phòng địch trà trộn", ông Tư nhớ lại.

Con đường Trường Sơn thuở ấy không chỉ có bom đạn, mà còn đầy những thử thách của thiên nhiên khắc nghiệt. Đã có những lúc, vì tình hình bom đạn khốc liệt, gạo chuyển đến nơi tiếp nhận chỉ còn vài nắm. Thế nhưng, với tinh thần "kiến tha lâu cũng đầy tổ", những đoàn người vẫn nối nhau không nghỉ, đưa từng hạt gạo, hạt muối vượt núi rừng, tiếp ứng cho các mặt trận từ Trung Lào, Thượng Lào.

Con đường của lương thực và mạng sống- Ảnh 2.

Vợ chồng ông Trần Đình Tư - bà Võ Thị Dũng

ẢNH: MẠNH CƯỜNG

Giai đoạn 1953 - 1954 là đỉnh điểm của chiến dịch. Ông Tư hoạt động tại hành lang đông và tây thuộc Trung Lào, Thượng Lào. Ở đó, ông chứng kiến và cảm nhận được sự ác liệt của chiến trường. "Chiến trận càng cam go thì những bước chân tiếp phẩm càng thêm hối hả. Ranh giới sống - chết chỉ trong gang tấc. Người lính tiếp vận không thể chọn tránh bom đạn, mà phải mang trong mình bản lĩnh gan dạ để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng: đưa lương thực từ hậu phương đến tiền tuyến", ông Tư quả quyết.

Những chuyến đi đó của ông Tư và đồng đội không chỉ tiếp sức cho quân tình nguyện VN mà còn là sự phối hợp chặt chẽ, tạo điều kiện cho quân dân nước bạn Lào giải phóng quê hương. Quan trọng hơn, chính những nguồn tiếp vận này đã góp phần tạo nên tiền đề vững chắc, chia lửa với mặt trận Điện Biên Phủ lịch sử.

BẾP HOÀNG CẦM VÀ LÒNG TIN VÔ ĐIỀU KIỆN

Trong khi ông Trần Đình Tư miệt mài gánh gạo trên những nẻo đường Trường Sơn, ở Điện Biên Phủ, bà Võ Thị Dũng (quê Anh Sơn, Nghệ An) cùng nhiều cô gái trẻ khác hưởng ứng lời kêu gọi "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng". Bà lên đường ra mặt trận với nhiệm vụ vá đường, vá hố bom, nấu ăn cho bộ đội.

Bà Dũng cùng đồng đội đã tạo nên một kỳ tích thầm lặng dưới những căn hầm kiên cố. Cứ 7 ngày một lần, tiếp phẩm từ hậu phương lại được chất đầy vào hầm. Ở đó, họ nhóm lửa, nấu cơm trên bếp Hoàng Cầm huyền thoại. "Nhờ có bếp Hoàng Cầm, cơm nước phục vụ bộ đội ngay tại chiến hào, không cần phải nắm cơm từ tuyến sau đưa lên", bà Dũng kể.

Suốt 56 ngày đêm "khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt", cuộc sống dưới những căn hầm chật chội kề cận ranh giới sinh tử đã rèn giũa họ thành những người lính có tinh thần thép. Tiếng máy bay địch xé trời, tiếng bom rơi trên đầu chẳng còn là điều bận tâm. Tất cả tâm trí, tình cảm của những người trẻ ấy đều hướng về mục tiêu chiến thắng ở Điện Biên. "Tình yêu lứa đôi là điều khó tránh khỏi ở tuổi còn xanh, nhưng trong "chảo lửa" ấy tất cả chúng tôi đã dành trọn vẹn tình yêu cho Tổ quốc", bà Dũng nói.

Con đường của lương thực và mạng sống- Ảnh 3.

Những tấm huy chương, huy hiệu được ông Trần Đình Tư giữ gìn cẩn thận

ẢNH: MẠNH CƯỜNG

Chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội mở ra trang sử mới của dân tộc, cũng là lúc ông Tư và bà Dũng có cơ hội nên duyên. Ngay sau chiến dịch, cả hai cùng được điều động về Hà Nội, rồi bố trí vào Sư đoàn 350, trở lại Sơn La - Điện Biên tiếp tục hoạt động. Ông Tư làm quân nhu, bà Dũng làm công tác bếp núc cho bộ đội tại Tiểu đoàn 1. Và ở đây họ đã tìm thấy nhau.

Ông Tư kể thời điểm đó mặc dù kỷ cương quân đội không được phép hẹn hò, yêu đương, nhưng những ánh mắt đã thay lời muốn nói. "Dù ưng bụng lắm, nhưng chỉ có thể vội nhìn nhau, gửi gắm đôi câu thăm hỏi mỗi lúc chuyển gạo, mắm, muối tới khu vực bếp", ông Tư cười hiền.

Tính cách nhiệt tình, hay pha trò của anh bộ đội xứ Quảng cứ "mưa dầm thấm lâu" khiến cô gái xứ Nghệ cảm nhận được tấm chân tình. Chuyện tình yêu của họ không có những buổi hẹn hò lãng mạn, thay vào đó là những mảnh giấy nhỏ dúi vội vào tay nhau khi trao nhận lương thực. Đêm về, lén mở ra đọc, rồi vội vã hồi âm. "Cùng nhau trải qua khói lửa Điện Biên, cùng chung một lý tưởng, một khát vọng hòa bình, vì vậy sự thấu hiểu, đồng cảm đến từ những chia sẻ thầm lặng, từ cái nắm tay thoáng qua. Và cứ thế mà thành đôi", ông Tư chia sẻ.

Năm 1957, ông Tư và bà Dũng quyết định về chung một nhà. Lễ cưới được tổ chức đơn sơ tại Nghệ An. "Đám cưới thời chiến, dù thiếu thốn về vật chất, chỉ có bộ quân phục phai màu, đãi khách chỉ có gói thuốc, chè, kẹo... nhưng lại đầy ắp tình cảm, sự sẻ chia của đồng đội, bà con", bà Dũng xúc động nhớ lại.

Thời tiết

Văn hóa

Giải trí

Thể thao